Một trong những chương đầu tiên của lịch sử Việt Nam là nhà nước Văn Lang, một quốc gia được cho là ra đời từ thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên và cai trị bởi các Hùng Vương. Bài viết dưới đây là câu trả lời cho câu hỏi: Nhà nước Văn Lang ra đời trong một hoàn cảnh phức tạp? Cùng tham khảo nhé.
Mục lục bài viết
1. Nhà nước Văn Lang ra đời trong một hoàn cảnh phức tạp?
– Khoảng thế kỷ 8 đến thế kỷ 7 trước Công nguyên, tại vùng đồng bằng ven sông lớn Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay (chủ yếu trên vùng đất dọc sông Hồng từ Ba Vì – Hà Nội đến Việt Trì – Phú Thọ, đã dần hình thành các bộ tộc lớn, gần gũi với nhau về ngôn ngữ và phương thức sản xuất kinh tế cũng dần dần phát triển và tiến bộ.
– Ở các chiềng, chạ, người giàu nhất, có thế lực nhất được bầu làm người đứng đầu để giám sát mọi việc; Một số ít nghèo khổ và phải rơi vào cảnh nô lệ. Mâu thuẫn giai cấp giữa người giàu và người nghèo đã nảy sinh và ngày càng gia tăng.
– Mở rộng diện tích trồng lúa nước ở vùng đồng bằng dọc các sông lớn gặp nhiều khó khăn. Từ đó nảy sinh nhu cầu kiểm soát nguồn nước và bảo vệ mùa màng. Cần có người chỉ huy tập hợp dân làng để chống lũ, bảo vệ mùa màng (làm thủy lợi)
– Mâu thuẫn, tranh chấp giữa các bộ tộc Lạc Việt, giữa người Lạc Việt với các dân tộc khác. Điều này dẫn đến sự cần thiết của các nhà lãnh đạo để chống xung đột.
⇒ Nước Văn Lang ra đời trong hoàn cảnh phức tạp trên.
2. Nhà nước Văn Lang là nhà nước nào?
Nước Văn Lang là nhà nước sơ khai đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, có niên đại từ thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên đến năm 258 trước Công nguyên. Nước Văn Lang do Hùng Vương cai trị.
Theo bộ sử ký Đại Việt sử ký toàn thư, có thể là phần ngoại kỷ do sử gia Ngô Sĩ Liên viết vào thế kỷ 15, ghi lại nước Văn Lang, cho rằng: Đế Minh thuộc dông dõi Thần Nông, sinh ra là Lộc Tục (tức Kinh Dương Vương), Lộc Tục cưới con gái Long Vương Hồ Động Đình, sinh ra Lạc Long Quân (theo truyền thuyết Lạc Long Quân là cháu đời thứ 5 của Thần Nông). Tiếp theo, Lạc Long Quân và vợ Âu Cơ (con gái Đế Lai) sinh được 100 người con trai.
Tuy nhiên, họ thuộc hai loài tiên và rồng, một loài sống trên cạn, một loài sống dưới nước nên không thể sống cùng nhau nên 50 người theo Lạc Long Quân xuống Biển Đông (Lạc Việt), 50 người theo Mẹ về núi (Âu Việt) phong con trưởng làm vua, lấy hiệu Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Bạch Hạc – Phú Thọ. Con trưởng Lạc Long Quân là Hùng Vương cai trị nước Văn Lang (bộ tộc Lạc Việt), truyền qua các đời vua Hùng và kết thúc vào năm 258 TCN (tức thế kỷ thứ 3 TCN) bởi An Dương Vương (bộ tộc Lạc Việt). Sau này An Dương Vương thống nhất hai bộ tộc gọi là Âu Lạc.
Chính vì thế cho đến nay, tín ngưỡng dân gian vẫn coi nước Văn Lang dưới thời vua Hùng đã ra đời cách đây hơn 4.000 năm.
Từ truyền thuyết Âu Cơ và Lạc Long Quân, nước Văn Lang ra đời vào thời kỳ đàn ông làm chủ bởi có những chi tiết như: trăm người con trai hay con trai trưởng làm vua nhưng thời kỳ này vẫn chịu ảnh hưởng rất lớn của bởi xã hội thị tộc mẫu hệ. Vì Nhà nước được xây dựng và phát triển theo tổ chức xã hội của mẹ Âu Cơ chứ không phải của cha Lạc Long Quân. Chế độ mẫu hệ vẫn còn được thể hiện rõ ràng không chỉ ở thời Hùng Vương mà còn ở Âu Lạc hay trong các cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Bà Triệu,….
3. Phạm vi lãnh thổ nhà nước Văn Lang:
Nước Văn Lang có lãnh thổ phía Đông giáp biển Đông (tức Nam Hải), phía Tây giáp Ba Thục, phía Bắc giáp hồ Động Đình, phía Nam giáp nước Hồ Tôn Tịnh (còn gọi là nước Hồ Tôn, sau này là Champa); Lãnh thổ được chia thành 15 bộ, còn gọi là quận. Những nghiên cứu trong tương lai về di tích văn hóa đồng được phát hiện, đối với lãnh thổ nước Văn Lang gồm khu vực phía Bắc và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay, có thể sẽ kéo dài hơn đến Quảng Trị.
4. Tổ chức nhà nước Văn Lang:
Tổ chức bộ máy nhà nước Văn Lang do Hùng Vương đứng đầu. Dưới vua có các quan giúp việc triều đình: văn tướng (còn gọi là Lạc Hầu), võ tướng (còn gọi là Lạc Tướng) quản lý các bộ ở địa phương. Dưới Lạc Tướng có các quan Bồ Chính.
Cả nước Văn Lang được chia thành 15 tỉnh (còn gọi là huyện). 15 bộ gồm: Văn Lang, Châu Diên, Phúc Lộc, Tần Hưng, Vũ Định, Vũ Ninh, Lục Hải, Ninh Hải, Dương Tuyền, Giao Chỉ, Cửu Chân, Hoài Hoan, Cửu Đức, Việt Thường, Bình Văn. Người đứng đầu mỗi bộ bây giờ là Lạc Tướng. Trực thuộc Bộ có các xã nông thôn (còn gọi là kẻ, chiềng, chạ), người đứng đầu các xã nông thôn là Bố Chính. Xã nông thôn là một hình thái xã hội phổ biến trong thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và chuyển sang xã hội có giai cấp. Con vua dưới quyền Văn Lang tên là Quan lang, con gái vua là Mị nương. Nước Văn Lang không có quân đội và pháp luật. Khi có chiến tranh, vua Hùng và các tướng Lạc huy động thanh niên nam nữ ở chiềng, chạ cùng tập hợp lại để chiến đấu.
Theo ngọc phả Hùng Vương thì mười tám đời vua Hùng bao gồm:
1. Kinh Dương Vương (vị vua viễn tổ)
2. Lạc Long Quân (vị vua cao tổ)
3. Hùng Quốc Vương (vị vua mở nước)
4. Hùng Diệp Vương Bảo Lang
5. Hùng Huy Vương Viên Lang
6. Hùng Huy Vương
7. Hùng Chiêu Vương Lang Tiên Lang
8. Hùng Vi Vương Thừa Vân Lang
9. Hùng Duy Vương Quốc Lang
10. Hùng Uy Vương Vương Hùng Hải Lang
11. Hùng Chính Vương Hùng Đức Lang
12. Hùng Việt Vương Đức Hiền Lang
13. Hùng Việt Vương Tuấn Lang
14. Hùng Anh Vương Châu Nhân Lang
15. Hùng Chiêu Vương Cảnh Chân Lang
16. Hùng Tạo Vương Đức Quân Lang
17. Hùng Nghị Vương Bảo Quang Lang
18. Hùng Duệ Vương Huệ Lang
5. Những thành tựu của nhà nước Văn Lang:
Dưới chính quyền Văn Lang, nông nghiệp phát triển mạnh mẽ. Theo những ghi chép lịch sử để lại, cư dân Văn Lang đã biết trồng lúa nước, theo nước lên xuống để làm ruộng và biết khắc phục thiên tai. Người dưới thời Văn Lang đã biết sử dụng các công cụ nông nghiệp như cày, cuốc, thuổng, mai… và sử dụng sức mạnh gia súc để thay thế sức người. Nhờ đó, con người có đời sống vật chất và tinh thần phong phú.
Đặc trưng của một nước nông nghiệp lúa nước, nguồn lương thực chính là gạo, người dân ta thời đó đã biết lấy ống tre để ăn (cơm lam) và làm bánh (truyền thuyết về bánh chưng, bánh dày). Ngoài lúa, gạo là nguồn lương thực chính, người dân còn biết trồng xen các loại cây trồng khác như khoai, sắn; nuôi và đánh bắt cá, gia cầm, gia súc làm thực phẩm…
Dưới thời Văn Lang, cư dân có thói quen sống trong nhà sàn, sơn răng đen, nhai trầu và xăm mình. Dùng vỏ cây làm quần áo, đàn bà mặc váy, đàn ông đóng khố; Biết dệt ống cỏ để làm chiếu nằm, sau đó biết sử dụng dụng cụ quay sợi bằng đất nung – đây là tiền đề của nghề dệt. Cả đàn ông và phụ nữ đều thích sử dụng đồ trang sức. Ngoài ra, các tài liệu cổ còn cho thấy đây là thời kỳ đỉnh cao của việc sử dụng đồ đồng, tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn thời Hùng Vương. Tận dụng lợi thế khu vực phía Bắc nước ta vốn có nhiều mỏ kim loại như: vàng, bạc, chì, sắt, đồng phục vụ cho luyện kim và đúc đồng. Bằng chứng cho điều này là những dấu tích Trống đồng Đông Sơn được tìm thấy ở nhiều nơi cũng đủ khắc họa những nét nổi bật của nền văn hóa thời Hùng Vương.
6. Bài tập vận dụng:
Câu 1: Hãy cho biết, lễ hội Đền Hùng được tổ chức vào ngày 10-03 âm lịch hằng năm có ý nghĩa như thế nào? Trình bày ý nghĩa của lễ hội Đền Hùng
Hướng dẫn trả lời:
Ý nghĩa của lễ hội Đền Hùng tổ chức vào ngày 10 tháng 3 âm lịch:
– Tưởng nhớ công ơn dựng nước của Vua Hùng được nhân dân trong và ngoài nước kính trọng tưởng nhớ.
– Tăng cường văn hoá tín ngưỡng truyền thống của người Việt, mặt khác còn tăng cường sự gắn kết giữa các dân tộc và tình hữu nghị giữa các dân tộc Việt Nam.
– Giúp mọi người dân Việt Nam hiểu được lịch sử của tổ tiên và dân tộc mình.
– Xúc tiến và phát triển du lịch trong và ngoài nước.
Câu 2: Trình bày những nét chính về đời sống tinh thần của cư dân Văn Lang- Âu Lạc:
Hướng dẫn trả lời:
– Đời sống tinh thần của cư dân Văn Lang, Âu Lạc:
+ Về tín ngưỡng:
Tiếp tục có tục thờ cúng tổ tiên; thờ thiên nhiên (thờ núi, thờ sông, thờ Mặt Trăng, thờ Mặt Trời…).
Người chết được chôn trong chum, vại, mộ thuyền, hoặc gốc cây cùng với các dụng cụ lao động hoặc đồ dùng gia đình.
+ Về phong tục tập quán: Người Việt xưa có tục xăm mình, để tóc đen, nhai trầu, làm bánh chưng, bánh dày.
+ Nhiều lễ hội được tổ chức trong nhiều năm. Trong các lễ hội, mọi người thích hóa trang, nhảy múa và hát theo tiếng sáo và tiếng trống. Các chàng trai đấu vật hoặc chèo thuyền trên sông.