Nhớ đồng là một trong số các tác phẩm tiêu biểu nhà nhà thơ Tố Hữu. Bài thơ được sáng tác trong khoảng thời gian Tố Hữu bị giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế). Sau đây là mẫu phân tích bài thơ Nhớ đồng của Tố Hữu chọn lọc hay nhất mời các bạn cùng tham khảo nhé.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích bài thơ Nhớ đồng của Tố Hữu chọn lọc hay nhất:
* Mở bài:
– Giới thiệu tác giả Tố Hữu
– Giới thiệu bài thơ Nhớ đồng của Tố Hữu
*Thân bài:
Nỗi nhớ của người tù cộng sản với cuộc sống bên ngoài nhà tù:
– Cảm hứng của bài thơ đến từ tiếng hát.
+ Bài hát được lặp đi lặp lại nhiều lần. Tiếng kêu cô đơn giữa bầu trời dài → nhân vật giàu cảm xúc cảm thấy cô đơn
Không gian đồng vắng
Thời gian trưa vắng
Hiu quạnh của đời buồn tủi nhọc nhằn
– Trái tim con người bị giam cầm trong ngục tối cách ly với cuộc sống bên ngoài
– Tiếng hát đồng cảm, hòa cùng bao cảm xúc cô đơn → Người chiến sĩ cách mạng mang nỗi nhớ sâu sắc về quê hương, cuộc sống ngoài tù.
+ Lời than thở thống thiết, đau đớn → miêu tả tấm lòng cô quạnh vì cách nói với thế giới bên ngoài → nỗi cô đơn của một người yêu đời say đắm.
+ Sự lặp lại → nhấn mạnh sự liên kết của nhiều nội dung khác nhau, làm nổi bật cảm xúc, làm sâu sắc thêm ý tưởng → vướng víu vì hoài niệm mãnh liệt.
– Miền quê có thể diễn tả nỗi buồn sâu sắc của tác giả:
+ Cồn thơm, ruồng tre mát, ô mạ xanh mơn mởn, nương khoai ngọt sắn bùi, chiều sương phủ bãi đồng, xóm làng và con đường thân thuộc, xóm nhà tranh thấp, con đường quen. → Tất cả đều đơn sơ gần gũi quen thuộc, thân thương → bị ngăn cách.
– Con người gần gũi thân thuộc thân thương:
Những lưng cong xuống luống cày
Những bàn tay vãi giống
+ Một giọng hò đưa bố mẹ già xa đơn chiếc → linh hồn đã khuất.
– Nỗi nhớ chân thật đậm tình thương mến
– Nhớ đến bản thân mình:
+ Nhớ tới những ngày tháng tự do hoạt động cách mạng.
+ “Rồi một …ngát trời”
→ Đam mê lý tưởng, đam mê khao khát tự do ⇒ càng cảm thấy cô đơn hơn với thực tế cuộc sống bị giam cầm.
Diễn biến tâm trạng của Tố Hữu:
– Hoài niệm thể hiện tâm trạng của nhà thơ:
+ Từ những âm thanh hoài niệm nồng nàn về quê hương: Hình ảnh quê hương hiện lên phong phú với: rượu thơm, cánh đồng tre mát rượi, lúa xanh mướt, khoai sắn, sương chiều phủ kín cánh đồng, làng mạc, con đường quen → hình ảnh thân thương, gần gũi giờ đã trở nên xa vời.
+ Nhớ biết bao người quen: từ khung cảnh và bóng người → mẹ già → nhớ mình
+ Nỗi nhớ kéo dài từ hiện tại trở về quá khứ → hiện tại
⇒ nhớ nhung, ngập tràn yêu thương → không chỉ có nỗi buồn, đằng sau đó là sự tức giận, bất mãn với hiện thực ⇒ một cảm giác khao khát, yêu đời, khao khát được tự mình làm điều đó.
*Kết bài:
+ Đây là một bài thơ hay, giàu cảm xúc, tâm trạng của một chiến sĩ khao khát tự do và hành động. Nỗi nhớ quê hương, con người và chính mình thể hiện một tình yêu sâu sắc với cuộc sống bên ngoài nhà tù, và hơn hết là tình yêu Tổ quốc và khát vọng tự mình làm nên điều đó.
+ Lựa chọn những hình ảnh gần gũi, quen thuộc, giọng thơ sâu lắng, đầy hoài niệm.
2. Phân tích bài thơ Nhớ đồng của Tố Hữu chọn lọc:
Tố Hữu là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Đến với thơ ông, chúng ta bắt gặp những bài thơ tràn đầy niềm tin và lý tưởng cách mạng. Tập thơ “Từ Đó” của ông tiêu biểu cho tâm hồn thơ đam mê, say mê đó. Bài thơ “Nhớ Đồng” là một trong những bài thơ hay nhất trong tập thơ.
Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ, một bài thơ có tựa đề tình ca, bộc lộ nỗi buồn cô đơn, nỗi khao khát sâu thẳm trong trái tim người chiến sĩ cách mạng:
“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò”
Lối so sánh hơn độc đáo của tác giả gợi lên nỗi nhớ đầy cảm xúc. Không có gì tiếc nuối, buồn bã hơn những ngày dài nhớ quê hương. Càng nhớ càng cô đơn, nỗi nhớ càng rộng, nỗi cô đơn càng lấn át và “cô đơn Niềm khao khát được cứu rỗi, sự chờ đợi, bao hình ảnh quê hương dần trở lại trong tâm trí tôi. Càng nhớ, càng yêu, càng thấy buồn:
“Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu luồng tre mát thuở yên vui
Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn
Đâu những nương khoai sắn ngọt bùi
Đâu những đường con bước vạn đời
Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi
Giữa dòng ngày tháng âm u đó
Không đổi nhưng mà trôi cứ trôi”
Ở quê hương thân yêu đó có biết bao vẻ đẹp và biết bao ấn tượng khó quên. Đó là những điều đẹp đẽ nhất chỉ có thể tìm thấy ở quê hương tôi, tôi nghĩ không thể thay thế được ở bất cứ nơi nào khác. Đó là mùi hương dịu nhẹ của gió hòa quyện với mùi thơm của đất trong lành và những dòng tre xanh tỏa bóng mát vào một buổi chiều hè.
Điệp từ “Đâu” đứng ở đầu câu vừa là một câu hỏi tu từ, vừa là một sự tìm kiếm điều gì đó thân thuộc ngày xưa ở quê hương, khi chưa có chiến tranh, mất mát, đau thương. Cảnh ngày xưa còn đâu? Tại sao bây giờ tôi cảm thấy trống rỗng và ước ao như vậy?
“Đâu những chiều sương phủ bãi đồng
Lúa mềm xao xác ủ ven sông
Vẳng lên trong tiếng xe lùa nước
Một giọng hò đưa hố não nùng.”
Dù mệt mỏi, gặp nhiều khó khăn nhưng người nông dân vẫn giữ vững niềm tin, sự lạc quan trong thời điểm khó khăn. Nỗi nhớ có thể khiến bất cứ ai ngừng làm việc. Một lần nữa nhà thơ phải nói ngọt ngào:
“Gì đâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên sông một tiếng hò”
Biết bao vẻ đẹp cổ xưa quay trở lại khiến lòng người không khỏi bồi hồi, luyến tiếc. Nhưng không ai có thể sống mãi trong quá khứ, hiện tại luôn là thứ khiến con người phải lo lắng, trăn trở:
“Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi
Sao mà cách biệt, quá xa xôi
Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ
Ôi mẹ giờ xa đơn chiếc ơi!”
Sự thật sao mà buồn đến thế, trên đời này chỉ có nhà thơ ở đây một mình. Có biết bao cách đặc biệt để giảm bớt nỗi buồn cô đơn, những hình bóng, những điều quen thuộc, hình bóng mẹ già đều đã qua đi, chỉ còn lại nỗi đau nhớ nhung, vết xước mãi mãi.
Không chỉ là nhân dân, là đồng quê, Tố Hữu còn tìm về mình của những ngày xưa qua nỗi nhớ:
“Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn
Muốn thoát, than ơi, bước chẳng rời.”
Mỗi người đều có quá khứ của riêng mình và Tố Hữu cũng vậy. Nhà thơ nhớ lại những tháng ngày gian khổ đi tìm lẽ sống, lý do để yêu đời nhưng luôn bị bao quanh bởi một vòng tròn, biết tìm đâu ra lối thoát? Nhưng rồi mọi chuyện cũng trôi qua và trở nên tốt đẹp hơn khi bắt gặp lý tưởng cách mạng sáng ngời:
“Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say đồng hương nắng ưa ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời”
Lòng đầy hưng phấn, nhẹ nhàng khi tìm thấy chính niềm yêu trong lựa chọn của mình. Sự phấn khích, say sưa, kiêu hãnh và khao khát cuộc sống được thể hiện bằng những ca từ vui tươi trong cuộc sống. Còn gì vui hơn khi được sống với chính mình, trong lòng nhẹ nhàng và cơ bản là chính mình? Hình ảnh so sánh sự “dịu dàng” với đôi cánh chim thực sự độc đáo và ấn tượng. Phải chăng đây không chỉ là niềm vui cá nhân mà còn là niềm vui chung với thiên nhiên, đất trời?
“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Ôi ruộng đồng quê hương nhớ ơi!”
Bài thơ kết thúc bằng những câu thơ lặp đi lặp lại tràn đầy tình yêu và niềm tin bất tận. Có lẽ, nỗi nhớ vẫn đang sôi sục, lăn tăn trong lòng những học giả yêu nước.
3. Phân tích bài thơ Nhớ đồng của Tố Hữu hay nhất:
Tố Hữu là nhà thơ lớn của thơ Việt Nam hiện đại. Với bảy tập thơ lớn, thơ ông được coi là biên niên sử thi ca của cách mạng Việt Nam. Bài thơ Nhớ Đất Nước là nỗi nhớ quê hương, cảnh vật, con người, đồng đội của một thanh niên cộng sản trong những ngày bị giam ở nhà tù Thừa Thiên Huế.
“Cô đơn thay là cảnh thân tù/ Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực..” Đó là cảm giác rõ nét nhất khi Tố Hữu bị bắt, nhất là với cuộc sống bên ngoài. Bởi vậy, một âm thanh, một tiếng động nào đó từ bên ngoài cũng gợi lên trong lòng nhà thơ một nỗi hoài niệm khó quên. Không phải là tiếng chim tu hú khắc khoải gọi hè như trong bài thơ Khi con tu hú, mà là một tiếng hò quen thuộc của đồng quê:
Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!
Tiếng hát như lời nhắc nhở, tạo nên nhiều hình ảnh quen thuộc của miền quê:
Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruồng che mát thở yên vui
Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn
Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?
Âm thanh tiếng hò gợi nhớ về quê hương. Thế giới bên ngoài là quê hương, hình ảnh con người, mùi hương, màu sắc, âm thanh. Đó là những hình ảnh quen thuộc, thấm thía về quê hương, mảnh đất chủ. Ở xa, nỗi nhớ của nhà thơ hẳn càng mãnh liệt hơn. Xa xa, hình ảnh, mùi vị, âm thanh, màu sắc của quê hương lại càng gần gũi đến lạ.
Nỗi nhớ quê hương đó cũng là nỗi nhớ của người lao động – những con người quê mùa cần cù, chất phác, quen “dãi gió dầm mưa”,”hiền như đất”, “rất thật thà”:
Đâu những lưng cong xuống luống cày
Mà bùn hy vọng nức hương ngây
Và đâu hết những bàn tay ấy
Vãi giống tung trời những sớm mai?
Đó là những người quanh năm cày ruộng, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Chính họ, những người lao động nông thôn lương thiện, cũng là những người gieo mầm những tia hy vọng cho tương lai.
Từ nỗi nhớ ấy, nghĩ đến cảnh tù đày của chính mình, một niềm vui nho nhỏ chợt len lỏi vào trái tim nhà thơ cách mạng:
Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi
Sao mà cách biệt, quá xa xôi
Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ
Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!
Anh nhớ lại hình ảnh của chính mình của “những ngày xưa”, từ cái thời “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”, “theo mãi vòng quanh quẩn” cho đến một ngày ông đến với cách mạng và gặp được lý tưởng cộng sản. Và thế là nhân dân tìm lại được khát vọng tự do, khát vọng thoát khỏi lao động và sưởi ấm thân xác trên đấu trường cách mạng.
Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say hương đồng vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời
Hình ảnh chim sơn ca là biểu tượng cho khát vọng bay lượn trên bầu trời tự do bao la, trở lại hoạt động trong lòng người dân, trở về với cuộc sống của những con người tự lập. Đây là tâm trạng vui vẻ nhất của người lính trong tù.
Cả bài thơ xoa dịu nỗi nhớ nhung đau đớn không nguôi; Người đọc càng ấn tượng hơn với hình ảnh người chiến sĩ cách mạng – nhà thơ Tố Hữu.
4. Tìm hiểu về tác giả Tố Hữu:
Tố Hữu (1920 – 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thanh, xuất thân trong một gia đình Nho học nghèo ở làng Phú Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Thơ Tố Hữu hội tụ, kết tinh truyền thống nhân văn và sức mạnh tinh thần của dòng họ Lạc Hồng bất khuất.
Ông là đầu tàu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
Giới thiệu vấn đề cần phân tích: Bài thơ Nhớ đồng sáng tác trong bối cảnh tác giả bị thực dân Pháp bắt tại nhà tù Thừa Phú (Huế) vào tháng 7 năm 1939 về “tội” tuyên truyền thanh niên, học sinh chống Pháp.