Ngày 1/10/1949, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời với ý nghĩa vô cùng to lớn. Vậy thành lập Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có ý nghĩa như thế nào đối với Trung Quốc và cả thế giới, hãy cùng đi tìm hiểu qua bài viết: “Ý nghĩa của sự thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” dưới đây nhé.
Mục lục bài viết
- 1 1. Ý nghĩa của sự thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa:
- 2 2. Sự thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa:
- 3 3. Sự chuyển biến của cách mạng Trung Quốc từ dân chủ tư sản kiểu cũ chuyển sang dân chủ tư sản kiểu mới:
- 4 4. Cuộc nội chiến cách mạng lần thứ nhất (1924 – 19270) ở Trung Quốc:
- 5 5. Cuộc nội chiến cách mạng lần thứ hai ở Trung Quốc và cuộc đấu tranh chống phát xít Nhật xâm lược (1927 – 1937):
1. Ý nghĩa của sự thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa:
Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ của nhân dân Trung Quốc, giành lại độc lập và đưa đất nước Trung Quốc bước vào kỉ nguyên độc lập, tự do, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
– Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập nước CHND Trung Hoa đối với Trung Quốc
Kết thúc hơn 100 năm ách nô lệ của đế quốc và hàng nghìn năm của chế độ phong kiến.
Đưa Trung Quốc vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự do và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
– Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập nước CHND Trung Hoa đối với thế giới
Vì Trung Quốc đi theo con đường chủ nghĩa xã hội nên hệ thống xã hội chủ nghĩa đã được kết nối từ châu Âu đến châu Á.
Cỗ vũ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, đặc biệt là ở khu vực Đông Nam Á.
Từ những ý nghĩa trên, có thể thấy rằng sự ra đời của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một sự kiện có sức ảnh hưởng to lớn đến lịch sử phát triển của nhân loại trên toàn thế giới. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ảnh hưởng đến cả Trung Quốc nói riêng và các quốc gia khác nói chung.
2. Sự thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa:
Sau khi cuộc chiến tranh chống Nhật kết thúc, ở Trung Quốc xảy ra cuộc nội chiến (1946-1949) giữa Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản.
– Ngày 8 tháng 5 – 20 tháng 7 năm 1946, nội chiến nổ ra.
– Từ tháng 7 năm 1946 đến tháng 6 năm 1947: Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc thực hiện chiến lược phòng thủ tích cực.
– Từ tháng 6 năm 1947 đến năm 1949, Quân Giải phóng Nhân dân dần dần giải phóng lục địa Trung Quốc.
– Ngày 1/10/1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, đứng đầu là Chủ tịch Mao Trạch Đông.
3. Sự chuyển biến của cách mạng Trung Quốc từ dân chủ tư sản kiểu cũ chuyển sang dân chủ tư sản kiểu mới:
Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga có ảnh hưởng to lớn và sâu sắc đến cách mạng Trung Quốc.
Ngày 4 tháng 5 năm 1919, phong trào quần chúng chống chủ nghĩa đế quốc và phong kiến nổ ra, phản đối các nước đế quốc trong “Hội nghị hòa bình ở Paris” đã bác bỏ các đề xuất chính đáng của Trung Quốc và âm mưu xâu xé Trung Quốc.
Sau ngày 3 tháng 6, trung tâm của phong trào yêu nước từ Bắc Kinh chuyển đến Thượng Hải – một thành phố lớn, một trung tâm công nghiệp và thương mại lớn của Trung Quốc. Lực lượng chính của phong trào chuyển từ học sinh sang giai cấp công nhân.
Phong trào Ngũ Tứ nhanh chóng mở rộng ra 20 tỉnh và hơn 100 thành phố, bao gồm nhiều tầng lớp nhân dân, trong đó lực lượng chính là giai cấp công nhân.
Phong trào Ngũ Tứ đánh dấu giai đoạn giai cấp công nhân Trung Quốc trở thành lực lượng chính trị hùng mạnh và bắt đầu bước lên vũ đài chính trị, tạo điều kiện cho chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá rộng rãi ở Trung Quốc.
Lý Đại Chiêu là người Trung Quốc đầu tiên tiếp xúc với chủ nghĩa Mác-Lênin và góp phần tuyên truyền Cách mạng Tháng Mười ở Nga. Trong những năm 1918-1919, những người cộng sản ở Trung Quốc đã thành lập Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Thượng Hải và Bắc Kinh. Tháng 5 năm 1920, với sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, chi bộ cộng sản đầu tiên được thành lập tại Thượng Hải. Sau đó, các chi bộ cộng sản được thành lập ở nhiều nơi trong cả nước như: Quảng Châu, Hồ Nam, Hồ Bắc, Sơn Đông,…
Ngày 1 tháng 7 năm 1921, với sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, các chi bộ cộng sản ở nhiều nơi đã bầu 12 đại biểu đại diện cho 57 đảng viên tham dự đại hội thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Thượng Hải. Đại hội tuyên bố thông qua điều lệ và bầu ra cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Tháng 7 năm 1922, Đảng triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai tại Thượng Hải, với 12 đại biểu đại diện cho 123 đảng viên.
Phần thứ nhất nêu rõ việc phân chia thế giới thành hai phe đối lập sau chiến tranh.
Phần thứ hai phân tích bản chất xã hội Trung Quốc, bản chất cách mạng Trung Quốc và động lực của cách mạng Trung Quốc
Phần thứ ba của Tuyên ngôn nêu rõ Cương lĩnh cao nhất và Cương lĩnh thấp nhất của Đảng.
Đại hội toàn quốc lần thứ ba của Đảng Cộng sản Trung Quốc Tổng tuyển cử vào tháng 6 năm 1923 tại Quảng Châu với sự hiện diện của 30 đại biểu đại diện cho 432 đảng viên Đại hội đã đề ra phương chậm lập Mặt trận thống nhất cách mạng dân tộc dân chủ để tập hợp lực lượng cách mạng chống lại đế quốc và chế độ phong kiến.
4. Cuộc nội chiến cách mạng lần thứ nhất (1924 – 19270) ở Trung Quốc:
Đại hội lần thứ ba của Đảng Cộng sản Trung Quốc (tháng 6 năm 1923) đã thông qua nghị quyết quyết định về sự hợp tác giữa Đảng Cộng sản và Quốc dân đảng. Đại hội lần thứ nhất của Quốc dân đảng đánh dấu sự hình thành liên minh giữa Đảng Cộng sản và Quốc dân đảng.
Mặt trận thống nhất tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào cách mạng quần chúng phục hồi và phát triển.
Tháng 7 năm 1926, cuộc chiến tranh tiêu diệt các tập đoàn quân phiệt phương Bắc bắt đầu.
Ngày 22 tháng 3 năm 1927, quân đội cách mạng tiến vào giải phóng Thượng Hải. Công nhân Thượng Hải đã chiến đấu anh dũng phối hợp với quân đội Bắc phạt để giải phóng Thượng Hải.
Ngày 4 tháng 12 năm 1927, Tưởng Giới Thạch phát động cuộc chiến tranh phản cách mạng ở Thượng Hải, giết chết hàng nghìn người cộng sản và công nhân cách mạng.
Mặc dù thất bại, nhưng cuộc nội chiến cách mạng đầu tiên (1924-1927) vẫn được coi là cuộc cách mạng vĩ đại của nhân dân Trung Quốc và Đảng Cộng sản, đồng thời đặt ra những bài học quan trọng cho cách mạng Trung Quốc.
5. Cuộc nội chiến cách mạng lần thứ hai ở Trung Quốc và cuộc đấu tranh chống phát xít Nhật xâm lược (1927 – 1937):
Sau thất bại của cuộc nội chiến cách mạng lần thứ nhất, từ năm 1927 đến năm 1930, đã có những cuộc chiến tranh liên tiếp giữa tập đoàn Tưởng Giới Thạch với các tập đoàn quân phiệt khác.
Chính sách đối nội và đối ngoại của chính quyền Tưởng Giới Thạch đều hướng tới phục vụ lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến, giai cấp tư sản mại bản và tư bản nước ngoài.
Tháng 6 năm 1928, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tổ chức Đại hội lần thứ 6 tại Matcova, với sự tham dự của hơn 40.000 đại biểu đại diện cho hơn 40.000 đảng viên.
Đại hội xác định: bản chất của cách mạng Trung Quốc vẫn là cách mạng dân chủ tư sản; Nhiệm vụ quan trọng trước mắt của những người cộng sản là huy động quần chúng, tích lũy lực lượng; thành lập Hồng quân của công nhân và nông dân; mở rộng cách mạng ruộng đất.
Cuối tháng 12 năm 1931, Tưởng Giới Thạch lại huy động 20 vạn quân, mở đợt vây hãm và tấn công mới, xây dựng một mặt trận dài 400km. Sau 15 ngày giao tranh, Hồng quân đã phá vòng vây thứ hai.
Ngày 1 tháng 8 năm 1935, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Chính phủ Dân chủ Công nông ra lời kêu gọi “đình chỉ nội chiến, đoàn kết chống Nhật”, được nhiều tầng lớp nhân dân hưởng ứng. Phong trào biểu tình chống Nhật nổ ra trên diện rộng, lan rộng khắp cả nước.
Từ tháng 5 năm 1936, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nhiều lần đề nghị Quốc dân đảng đình chiến, đàm phán hòa bình, thành lập Mặt trận thống nhất toàn quốc chống Nhật.
Ngày 15 tháng 7 năm 1937, Đảng Cộng sản ra Tuyên bố hợp tác toàn quốc chống Nhật. Ngày 22 tháng 9, Quốc dân đảng phải chính thức công bố bản Tuyên ngôn đó. Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật chính thức được thành lập từ đây.