Bài viết dưới đây giúp các em hiểu được bút pháp xây dựng nhân cách độc đáo của nhà văn Kim Lân. Thông qua tình huống cốt truyện đó, tác giả muốn tố cáo bọn thực dân giả tạo đã gây ra nạn đói năm 1945 cho nước ta. Các bạn cùng tham khảo nhé!
Mục lục bài viết
1. Dàn ý bài Phân tích giá trị nghệ thuật trong tình huống truyện Vợ nhặt ngắn gọn nhất:
1.1. Mở bài:
– Giới thiệu khái quát về truyện ngắn “Vợ nhặt” và tác giả Kim Lân
– Giá trị nghệ thuật trong tình huống truyện: đã làm nổi bật vẻ đẹp nhân văn của những con người đói khát, đồng thời làm cho ý đồ tư duy tưởng tượng của tác giả có thể hiện thực hóa được.
1.2. Thân bài:
– Mục đích của Kim Lân khi viết Vợ Nhặt. Viết về cái đói, nhưng dụng ý của tác giả không phải để phản ánh bi kịch của cái đói, cái khát và mọi sự bất lực của con người gây ra cái đói. Với Kim Lân, Truyện Vợ Nhặt khám phá những những góc khuất cuối cùng của bi kịch cuộc đời đó.
– Những đặc sắc nghệ thuật của Kim Lân khi xây dựng vấn đề:
Đặc biệt chú ý khai thác các mối quan hệ trong bức tranh cuộc sống:
– Sự tương phản giữa cảnh đói khát, ám ảnh cái chết và khát vọng được sống, hạnh phúc của con người:
+ Tác giả miêu tả khá kỹ cảnh xảy ra nạn đói, nhất là không gian năm đói với các phương diện âm thanh, mùi vị, hình ảnh, không khí tang thương tạo cảm giác lạnh lẽo, đau đớn ghê gớm, trước cái chết. đang ngự trị và chi phối mọi mặt của cuộc sống.
Trong bầu không khí đó, cần phải có một sự kiện thực sự kỳ lạ, thực sự độc đáo để thu hút sự chú ý và đảo ngược tình thế: đó là sự kiện anh Tràng nhặt được vợ.
+ Sự đối lập không chỉ ở bên ngoài mà còn tồn tại trong tâm hồn nhân vật. Ngòi bút tâm lý của Kim Lân đã đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật để khám phá và miêu tả những trạng thái tâm lý đối lập trong mỗi con người.
+ Từ những sự đối lập đó, nhà văn đã miêu tả thành công tâm lí nhân vật bằng những biểu cảm vô cùng phong phú để đi đến một sự khẳng định: cái đói, cái chết với những sự ám ảnh khủng khiếp mà nó gây ra cho làng quê.
– Tương phản trong tâm lý nhân vật: Trước khi Tràng đưa vợ về và sau sau khi đưa vợ về
– Như vậy, khi xây dựng vấn đề cần giải quyết, nhà văn ít khai thác mối quan hệ của cuộc sống bên ngoài mà chủ yếu đi sâu miêu tả tâm lý biến đổi của từng nhân vật.
Từ đó, có thể thấy Kim Lân rất khéo léo trong việc tổ chức điểm nhìn trần thuật: người kể chuyện đôi khi đứng ngoài quan sát, kể và miêu tả một cách khách quan, đôi khi hóa thân vào nhân vật để hồi tưởng và trải nghiệm. Câu chuyện trở nên trữ tình và nhẹ nhàng, độ nhạy cảm cao nhất khi tác giả đưa giọng kể chuyện vào giọng nội tâm của nhân vật, biến lời kể thành lời tự sự vì những suy nghĩ của nhân vật (đoạn văn miêu tả tâm trạng của bà cụ Tứ) diễn tả sâu sắc và tinh tế những trạng thái tâm lý, phản ứng tâm lý của nhân vật trước sự kiện.
*Ngôn ngữ truyện:
– Ngôn ngữ người kể: Có lúc tự nhiên, hóm hỉnh, có lúc trang trọng, chân thật và nhìn chung đều rất giản dị mà vẫn rất gợi cảm, có những đoạn chân thành chứa chất thơ
– Ngôn ngữ nhân vật: ngôn ngữ đối thoại: rút gọn, giản dị, đôi chỗ hơi thô và phù hợp với tính cách của từng nhân vật, phù hợp với mục đích lời nói của nhân vật, đó là ngôn ngữ vừa quen thuộc, vừa thăm dò, vừa xa lạ mà cũng vừa gần gũi.
*Cốt truyện:
Xoay quanh và theo sát sự kiện Tràng nhặt vợ nhưng không đơn điệu theo một hướng, tác giả cố tình đảo ngược trình tự trần thuật để vừa dẫn dắt, giải thích, vừa bình luận nhằm khai thác các khía cạnh của sự kiện.
1.3. Kết bài:
Khái quát lại vấn đề: Nhân vật được xây dựng trong truyện ngắn Vợ nhặt không chỉ là nghệ thuật mà còn là khả năng của Kim Lân trong tác phẩm khám phá và đồng cảm sâu sắc với số phận, hoàn cảnh của con người.
2. Bài Phân tích giá trị nghệ thuật trong tình huống truyện Vợ nhặt hay nhất:
“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân khi viết về cuộc sống và con người ở nông thôn. Trong bối cảnh lịch sử của nạn đói năm 1945, Kim Lân đã đặt nhân vật của mình vào một hoàn cảnh thảm hại vừa buồn nhưng lại vừa vui, vừa hạnh phúc nhưng cũng đầy lo toan.
Nghệ thuật xây dựng cốt truyện là đặt nhân vật vào những hoàn cảnh nhất định, tạo ra môi trường để nhân vật hành động, qua đó bộc lộ tính cách riêng của từng nhân vật. Trong tác phẩm, Kim Lân đã xây dựng một vấn đề đặc biệt. Đó là cốt truyện về một anh nông dân nghèo tên Tràng, xấu xí, có nguy cơ ế vợ, bỗng một ngày trở về có thêm một cô vợ, nhưng là chỉ là một cô vợ nhặt. Hoàn cảnh của anh kéo theo một loạt các tình huống khác nhau mà không làm cốt truyện mất đi sự thú vị.
Mối tình này đã gây bất ngờ lớn cho bà con lối xóm, cho mẹ Tràng và cả cho chính bản thân của Tràng, bởi hai lý do: Ai mà tưởng tượng được một người nghèo, xấu xí lại còn là dân ngụ cư như Tràng lại có thể lấy được vợ. Hơn nữa, Tràng còn lấy được vợ trong hoàn cảnh khốc nghiệt của nạn đói lúc bấy giờ.
Cái đói khiến con người ta vừa mất đi sự xấu hổ vừa mất đi lòng tự trọng. Câu nói của Tràng như một cứu cánh cho cuộc đời người phụ nữ. Vì vậy, Thị với Tràng nên vợ nên chồng.
Đặt nhân vật vào một vấn đề đặc biệt, khó khăn như vậy, Kim Lân đã làm nổi bật những ý nghĩa sâu sắc của câu chuyện. Thông qua tình huống đan xen giữa nụ cười và nước mắt, truyện kể lên án gay gắt đẩy lùi bọn phong kiến thực dân và phát xít cùng bè lũ tay sai gây ra nạn đói năm 1945, dẫn đến sự rẻ rúng giá trị con người: dẫn đến sự trớ trêu và bóp méo của các giá trị nhân văn: người ta có thể lấy được một người vợ tốt chỉ bằng bốn chiếc bánh đúc.
Tình yêu đó cũng là môi trường để nhân vật bộc lộ tính cách rõ ràng cũng như đời sống tinh thần của mình. Bên ngoài, anh là một chàng trai giản dị, nhẹ nhàng, chăm chỉ làm việc và có nội tâm vô cùng giản dị. Bà cụ Tứ có kinh nghiệm và sự từng trải. Tràng “nhặt” được vợ, bà cụ biết tin vừa mừng vừa lo.
Thông qua cách giải quyết tình huống truyện độc đáo, Kim Lân còn muốn thể hiện khát vọng của con người là có thể vượt qua hoàn cảnh để sống và hạnh phúc. Người lao động dù trong hoàn cảnh khó khăn đến đâu, ngay cả khi cận kề cái chết vẫn luôn khao khát ánh sáng, tin tưởng vào cuộc sống và tương lai.
3. Phân tích giá trị nghệ thuật trong tình huống truyện Vợ nhặt ý nghĩa nhất:
Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân kể về cuộc sống ngột ngạt, áp bức của nhân dân ta năm 1945, với cái đói, cái khát đã giết chết hơn hai triệu người từ miền Bắc vào miền Trung. Yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm là nhà văn Kim Lân đã xây dựng một tình huống truyện đặc biệt, một tình huống gượng ép, trở trêu chứa đựng đầy kịch tính nhưng lại chứa đựng ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc.
Cốt truyện được xây dựng vô cùng giản dị: Một chàng trai nghèo, sống ở xóm ngụ cư, độc thân, già nua và xấu xí làm nghề kéo xe bò, chỉ bằng vài câu chuyện cười và vài bát bánh đúc mà kiếm được cô vợ nhặt – một cô gái đang sống cuộc sống đói khát. Họ trở thành vợ chồng trong một khung cảnh tối tăm vì đói khát.
Việc anh Tràng đưa cô vợ nhặt về nhà là một tình huống lạ lùng được tác giả khéo léo tạo ra, tình huống đó gây ra sự ngạc nhiên và thú vị cho cả cái xóm ngụ cư đang hấp hối vì cơn đói và lạ lùng ngay cả với mẹ con anh Tràng.
Bà cụ Tứ mẹ anh Tràng ngạc nhiên khi biết con trai mình có vợ. Rồi từ ngạc nhiên bà chuyển sang vui mừng vì con trai bà đột nhiên có vợ, thậm chí là vợ nhặt. Trong lòng bà cụ băn khoăn không biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát giữa nạn đói này không? Càng suy nghĩ, bà cụ càng thương con trai và thương con dâu vô hạn.
Ngay chính bản thân anh Tràng cũng ngạc nhiên không kém. Anh ngạc nhiên đến nỗi không tin là sự thật, không tin minh đã có vợ. Ngày hôm sau khi Tràng thức dậy, nhìn chị ta cùng mẹ quét dọn sân vườn, Tràng vẫn còn chưa dám tin là mình đã có vợ.
Tình huống mà Kim Lân dựng lên trong truyện là một tình thế tiến thoái lưỡng nan, không biết nên buồn hay nên vui. Bản thân Tràng ban đầu thì mừng vì tự nhiên có được vợ, nhưng rồi anh thầm nghĩ giữa nạn đói đến bản thân còn không có cái gì ăn thì lấy gì mà đèo bòng.
Hạnh phúc nhỏ bé, mong manh của họ bị bao quanh bởi đói khát và cái chết. Nhưng sự sống là bất tử. Từ trong cái chết, sự sống vẫn sôi sục, nảy nở. Sự sống thách thức cái chết, điều đó chứng tỏ ý chí con người và quy luật của sự sống mạnh mẽ đến thế nào!
Bằng cách đặt nhân vật vào một câu chuyện bi thảm như vậy, tác giả đã làm nổi bật ý nghĩa nhân văn sâu sắc của tác phẩm. Tuy không trực tiếp nhắc đến thực dân Pháp, Nhật Bản và chính quyền phong kiến, câu chuyện về người vợ nhặt vẫn mạnh mẽ tố cáo tội ác tày đình của chúng đã gây nên nạn đói thảm khốc có một không hai trong lịch sử nước ta. Bên cạnh đó truyện đã khắc họa thành công vẻ đẹp tinh thần ẩn chứa trong cái vẻ ngoài xác xơ vì nghèo đói của những con người xóm ngụ cư thời bấy giờ. Trong cái sự tồi tàn đó, họ vẫn nhen nhóm trong tim niềm tin và hi vọng vào một ngày mai tươi sáng.