Bạn đang chuẩn bị bước vào kì thi chuyển cấp quan trọng, bạn đang lo lắng không biết làm sao để đối mặt với môn văn vừa dài vừa khó đây? Vậy hôm nay hãy cùng chúng tôi tìm hiểu những bài phân tích mẫu tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài hay nhất nhé!
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ hay nhất:
Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
Thân bài:
Nhân vật Mị:
– Là một cô gái trẻ trung, hồn nhiên, vui tươi, yêu đời, một người con gái hiếu thảo, luôn khát khao về tình yêu.
– Vì món nợ của cha mẹ, Mị trả thành vật thế thân, sống kiếp sống đày đọa còn không bằng con trâu con ngựa.
– Thế nhưng sức sống của Mị chưa bao giờ bị dập tắt hoàn toàn. Nó chỉ bị vùi lấp, chỉ cần một ngọn gió thổi vào, sức sống đó sẽ bùng lên mạnh mẽ. Đêm tình mùa xuân chính là ngọn gió ấy. Sức sống trong Mị trỗi dậy, Mị còn trẻ, Mị cũng mong muốn tha thiết được đi chơi, được vui đùa cùng đám trai gái trong làng ở ngoài kia. Nhưng rồi, tất cả đã bị A Sử vùi dập, hắn trói Mị vào cột, không cho Mị đi chơi.
– Nhưng rồi đêm mùa xuân đến, một lần nữa sức sống trong Mị lại như được khơi nguồn. Mị là một con người tràn đầy sức sống, niềm tin mãnh liệt vào tương lai. Sức sống của Mị bị xã hội chà đạp một cách tàn nhẫn nhưng Mị chưa bao giờ ngưng đấu tranh.
Nhân vật A Phủ:
– Số phận: Bất hạnh, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, làm thuê để kiếm sống
– Trở thành con nợ của nhà thống lý Pá Tra, bị đày đọa, bóc lột về thể chất và cả tinh thần.
– Tính cách: gan dạ, dũng cảm, là người chăm chỉ, chịu khó.
Kết bài: Đánh giá giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
2. Bài văn phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ hay nhất:
Tô Hoài kể lại: “Kết quả lớn nhất và đầu tiên của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và con người miền Tây đã thương và nhớ đến tôi đến mức không bao giờ quên được. Tôi không bao giờ quên được lần vợ chồng A Phủ tiễn tôi ra khỏi ngõ xóm Tà Sùa và cùng vẫy tay: Chéo lù! Có thể đây là nguyên nhân để ông viết tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” như một lời tri ân đối với những người dân nơi rẻo cao Tây Bắc.
Truyện ngắn này được in trong tuyển tập “Truyện Tây Bắc” (1952) và được Giải Nhất – Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. “Vợ chồng A Phủ” là bức tranh Tây Bắc với những phong tục tập quán. Trong phần đầu của tác phẩm, Tô Hoài chủ yếu khắc họa cuộc sống của nhân vật Mị và A Phủ khi ở Hồng Ngài, sống kiếp nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra.
Trước khi về làm dâu xóa nợ cho nhà thống lý, Mị là một cô gái xinh đẹp, yêu đời, yêu cuộc sống tự do. Cô có tài thổi sáo giỏi, “thổi lá cũng hay như thổi sáo” khiến “biết bao người say mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mặc dù Mị sinh ra trong một gia đình nghèo, trước đây bố mẹ tôi phải
Đó là tiếng nói phản kháng lại hủ tục dùng người thay nợ tiền của các dân tộc miền núi. Hủ tục cổ hủ này đã cướp đi cuộc sống tự do của nhiều người. Đồng thời câu nói ấy cũng thể hiện niềm tin vào nghị lực sống của chính mình. Mị tin rằng mình có thể làm ruộng ngô để trả nợ thay cho cha.
Nhưng Mị đã bị A Sử cướp mất đem về “dâng con ma” cho nhà thống lí. Cuộc đời Mị đã gắn liền với thân phận người con dâu trong nhà thống lý Pá Tra. Cô tức giận và đau đớn cho chính thân phận của mình. Trong nhiều tháng, đêm nào cô cũng khóc. Định lấy lá ngón tự tử nhưng Mị “không thể chết” vì thương bố. Có lẽ cái chết là cách tốt nhất để cô giải thoát cuộc đời nô lệ của mình, Mị sẽ không phải tủi thân hay tức giận nữa.
Từ thái độ phản kháng, Mị trở nên cam chịu hoàn cảnh. Mị đã quen với nỗi khổ “Tưởng mình cũng là trâu, mình cũng là ngựa” miệt mài ngày đêm không ngơi nghỉ. Những công việc hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ ngô, se sợi, dệt vải, bổ củi, gánh nước… lần lượt “vẽ ra trước mắt” thôi thúc cô làm. Có phải vì thế mà “càng ngày Mị càng không nói, rút lui như con rùa bị nhốt trong xó”. Càng ngày, Mị càng trở nên im lặng, chấp nhận số phận của mình mà không một lời phàn nàn.
Khuôn mặt của cô ấy trong bất kỳ tình huống nào cũng “buồn”. Người đàn bà ấy tê tái vì gian khổ, mất hết cảm giác về thời gian và không gian vì căn phòng Mị nằm có một ô cửa sổ với lỗ vuông bằng lòng bàn tay. trắng không biết sương hay nắng”. Tưởng chừng mình vô cảm với thế giới bên ngoài, nhưng chính thiên nhiên Tây Bắc vào xuân, tiếng sáo ấy lại là tác nhân khơi dậy tình yêu cuộc sống, sức sống trong Mị. Tiếng sáo đã đánh thức tâm hồn ngủ say của nàng.
Mị có thể cảm thấy âm thanh của tiếng sáo gọi bạn. Không khí những ngày Tết làm Mị như “sống lại ngày xưa”. Mị uống rượu, “uống từng bát” như nuốt hết những uất ức vào trong. Tâm hồn Mị lại “nổ tung”. Điều đặc biệt là Mị đã có ý thức về bản thân, cô nhận ra mình còn trẻ và muốn đi chơi ngày Tết. Ước muốn đã biến thành hành động: “Mị sẽ lấy một ống mỡ, cuộn lại một miếng bỏ vào đĩa đèn để thắp lên” rồi quấn tóc, “lấy chiếc váy hoa treo trong góc tường” và chuẩn bị ra ngoài.
Tiếng sáo lửng lơ mời gọi khiến Mị không nỡ từ chối. Cô đã thực sự hồi sinh và biến đổi để thoát khỏi sự áp bức của các thế lực cường quyền, thần quyền và vương quyền. Nhưng ý định của Mị không thực hiện được, Mị bị A Sử trói vào cột bằng một thúng sợi đay. Mị dường như đã quên đi nỗi đau thể xác để thả hồn theo những cuộc chơi. Tiếng chân ngựa va vào tường đưa Mị về với thực tại, “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng ngựa”. Thân phận làm dâu còn tệ hơn thân phận của loài vật như trâu, ngựa.
Ẩn sau con người cam chịu ấy là một sức sống tiềm tàng và mãnh liệt. Điều này được thể hiện ở chi tiết Mị cắt dây trói cho A Phủ và cùng hắn trốn khỏi Hồng Ngải. Đây cũng là hành động cởi trói, giải thoát cho chính mình. Nó xuất phát từ tấm lòng “thương người như thể thương thân” của cô. Mị đã tự giải thoát mình khỏi sự áp bức, áp bức của kẻ quyền thế, thần linh, của chồng. Hành động tuy tự phát nhưng lại vô cùng lý trí.
Với tác phẩm Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã khắc họa thành công nhân vật người phụ nữ phải chịu nhiều khổ đau, dưới cường quyền áp bức và những thủ tục lạc hậu của người dân tộc miền núi dường như quyền sống của người phụ nữ đã bị chôn vùi. Thế nhưng không vì thế mà họ chịu lùi bước, sức sống trong họ vẫn luôn tiềm tàng mãnh liệt hơn bất cứ ai.
3. Bài văn phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ ý nghĩa nhất:
Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam. Ông đã lại cho nền văn học Việt Nam những tác phẩm mang đậm giá trị hiện thực và giá trị nhân văn. Vợ chồng A Phủ là một trong số những tác phẩm như thế. Tác phẩm là bức tranh hiện thức khắc họa đời sống của người dân miền núi một cách chân thực dưới chế độ áp bức, bóc lột của chế độ phong kiến, cùng những thủ tục lạc hậu của người dân tộc miền núi. Điều đó được thể hiện rõ nét qua nhân vật A Phủ.
Không chỉ khắc họa thân phận người phụ nữ, Tô Hoài còn khắc họa thân phận người sơn cước phải chịu kiếp sống nô lệ. Đó là A Phủ, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, không người thân thích. Chàng trở thành món hàng đổi lấy gạo của người Thái, nhưng “A Phủ bướng bỉnh, không chịu ở lại ruộng trũng, A Phủ trốn lên núi, lưu lạc đến Hồng Ngài”.
Tuy nghèo nhưng A Phủ đã biết lao động để nuôi sống bản thân. Chàng đã biết “đúc lưỡi cày, đục cuốc, cày giỏi và săn bò tót rất táo bạo”. Vì thế, nhiều cô gái đã so sánh việc có A Phủ “tương đương với một con trâu tốt trong nhà, và sẽ sớm giàu có”. Người dân A phải có lòng dũng cảm, biết vượt qua khó khăn, gian khổ, nguy hiểm. A Phủ sống tự do, gần gũi với thiên nhiên nhưng vì tội đánh con quan mà phải chịu thân phận nô lệ.
A Phủ đánh A Sử không phải vì tính cách hung hãn, độc ác mà vì A Phủ không chấp nhận sự thống trị, lên ngôi của cái ác. Sự áp bức cường quyền đã đẩy một con người tự do tự tại trở thành một con người cam chịu số phận. Bị đánh đập dã man nhưng A Phủ vẫn “im lìm như tượng đá”. A Phủ chấp nhận cuộc sống sống trong nợ nần với nhà thống lý. Vì mải mê bẫy chim mà A Phủ đã để hổ vồ mất một con bò. A Phủ bị trói vào cột bằng “dây mây quấn từ chân đến vai”.
Hoàn cảnh này đã làm lay động tình yêu và sự cảm thông của Mị. Mị nghĩ: “Chắc chỉ đêm mai thôi, người kia sẽ chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết” và Mị đã quyết định cắt dây cứu A Phủ. Hành động “ vùng lên chạy” phần nào thể hiện khát vọng sống, khát vọng chấm dứt thân phận nô lệ. A Phủ đã thức tỉnh để đến khu du kích Phiềng Sa tham gia cách mạng.
Truyện “Vợ chồng A Phủ” chứa đựng giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo cao cả. Qua tác phẩm, nhà văn Tô Hoài muốn tố cáo chế độ phong kiến và giai cấp thống trị bóc lột con người bằng hình thức bóc lột cho vay nặng lãi. Vì món nợ của bố mẹ, Mị bị đem ra làm vật thế chấp. Ông cũng lên án những hủ tục lạc hậu như tục “cúng ma” đã ép con người vào mê tín dị đoan, khiến họ không dám thoát khỏi vòng vây để tự cứu mình.
Đồng thời tác giả cũng thể hiện sự xót xa, thương cảm đối với những người lao động miền núi phải chịu đựng sự áp bức của giai cấp thống trị đầy thủ đoạn, gian ác. Tô Hoài ca ngợi sức sống mãnh liệt tiềm ẩn trong con người họ. Chính sức sống ấy đã giúp họ giải thoát khỏi cuộc sống nô lệ cho cách mạng, đến với cuộc sống tự do.
Với bút pháp cá nhân hóa, nhà văn đã xây dựng hai nhân vật đại diện cho những con người có phẩm chất tốt đẹp nhưng chịu nhiều bất hạnh, đau khổ. Mị tiêu biểu cho kiểu nhân vật tiềm tàng sức sống còn A Phủ tiêu biểu cho kiểu nhân vật hành động. Làm nền cho sự nổi bật của con người trong truyện là bức tranh thiên nhiên Tây Bắc tươi đẹp: “gió thổi trên nương vàng vàng”, “ở bản Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã được đem ra phơi trên những mỏm đá nhô ra như một con bướm đầy màu sắc.” Đây là những chi tiết nghệ thuật giàu hình khối.
Cùng với đó, các phong tục, tập quán như tục bắt vợ, phạt vạ, thưa kiện được thể hiện độc đáo. Truyện được kể theo ngôi thứ ba, điểm nhìn trần thuật đã chuyển từ điểm nhìn của người lữ hành sang điểm nhìn của người trong cuộc nên vừa khách quan, vừa đầy sự đồng cảm với nhân vật. Ngoài ra, Tô Hoài còn trau chuốt những chi tiết giàu sức gợi, giàu ý nghĩa như chi tiết tiếng sáo, tiếng chân ngựa đập vào tường,… Ngôn ngữ văn xuôi giàu chất thơ cũng là một yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh. sức hấp dẫn của tác phẩm.
Tất cả những điều trên đã tạo nên một tác phẩm có giá trị của thời đại, lưu danh trên diễn đàn văn học Việt Nam.
4. Bài văn phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ tốt nhất:
“Vợ chồng A Phủ” là một trong những kiệt tác xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài. Truyện ngắn là kết quả của 8 tháng tham gia chiến dịch Tây Bắc, sống và gắn bó nghĩa tình với đồng bào dân tộc của nhà văn. Có thể nói, “Vợ chồng A Phủ” là lát cắt về cuộc sống sinh hoạt của người dân lao động vùng núi cao dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi.
Về nội dung, “Vợ chồng A Phủ” chính là tiếng nói tố cáo đanh thép chế độ thực dân nửa phong kiến. Truyện đã phản ánh chính xác mâu thuẫn giai cấp căng thẳng và cuộc sống tăm tối của nhân dân lao động nghèo ở miền núi Tây Bắc. Tác phẩm mở đầu bằng lời kể về hoàn cảnh nhân vật Mị: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa.
Số phận của Mị không khác trâu ngựa của nhà thống lí Pá Tra, ngày ngày chỉ có làm việc và làm việc. Dường như lúc nào cũng vậy, mặt Mị lúc nào cũng buồn rười rượi. Dáng vẻ lầm lũi của Mị làm hoàn toàn đối lập với sự giàu sang của nhà thống lý Pá Tra. Chính sự mở đầu đầy nghịch lý đã khiến người đọc tò mò thêm về số phận của Mị. Thôi thúc người đọc đi tìm câu trả lời phía sau những cảnh đang hiện hữu trước mắt mình.
Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là một cô gái H’mông xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo. Tiếng sáo của Mị khiến trai bản “đứng nhẵn cả chân vách buồng”. Nhưng rồi vẻ đẹp đó đã bị vùi dập dưới chế độ phong kiến tàn bạo, chế độ thủ tục hà khắc, lạc hậu của người dân tộc miền núi. Từ đây, bao nhiêu hi vọng về hạnh phúc, về tương lai của cô như vụt tắt. Là con nợ, trả nợ xong là thôi nhưng đằng này Mị còn là một cô con dâu. Một cổ 2 gông, tất cả đã đẩy cuộc đời Mị vào vòng tuần hoàn của khổ đau. Tưởng chứng như cả đời Mị sẽ chẳng bao giờ có thể thoát khỏi xiềng xích nhà thống lý.
Khi mới bị bắt, đêm nào Mị cũng khóc, có lần cô trốn về nhà định ăn lá ngón tự tử. Sức sống của Mị vẫn luôn căng tràn, khao khát một cuộc sống tốt đẹp vẫn luôn hiện hữu trong sâu thẳm tâm hồn Mị. Quyết định tìm đến cái chết của cô không phải là biểu hiện của sự đầu hàng, buông xuôi. Đó là tiếng nói phản kháng đầy mạnh mẽ của một con người luôn khát khao tự do, khát khao hạnh phúc.
Đối với Mị, làm dâu nhà thống lí Pá Tra còn đau khổ hơn là cái chết, bởi vì ở đó, cô không được đối xử như một con người, không được lên tiếng quyết định cuộc đời mình, không có tự do cũng như hạnh phúc. Nhưng vì cha, Mị lại chấp nhận tiếp tục sống và chịu đựng: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa…”.
Từ một người con gái đầy sức sống, Mị giờ đây “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mị dường như đã không còn sống cuộc sống của một con người nữa rồi. Mị dường như đang bị giam lỏng trong một căn nhà rộng lớn, với căn buồng chỉ có một ô cửa nhỏ bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng” như một nhà giam không những giam hãm thân xác mà còn vây khốn tâm hồn Mị. Đó cũng là hiện thực đầy tàn khốc của những người dân nghèo dưới ách thống trị của bọn địa chủ phong kiến. Họ không chỉ bị tước đoạt tự do thân thể, mà tinh thần họ cũng vướng phải gông xiềng của lề thói, hủ tục.
Giữa bức tranh tăm tối ấy, đêm tình mùa xuân cùng tiếng sáo gọi bạn réo rắt như thổi một làn gió mới làm bùng lên ngọn lửa yêu thương, khát vọng sống tiềm tàng ngỡ đã vụt tắt. Tiếng sáo được Tô Hoài miêu tả nhiều lần với nhiều tầng bậc khác nhau: “Ngoài đầu núi…thổi”, “Tai Mị… gọi bạn”, “Trong đầu… sáo”, “Tiếng sáo… chơi”. Tiếng sáo gợi nhớ về kỉ niệm, tiếng sáo thôi thúc Mị tìm đến niềm hạnh phúc yêu thương.
Thế nhưng, cuộc đấu tranh giành giật sự sống của Mị không hề dễ dàng khi A Sử xuất hiện và giết chết khát vọng sống trong Mị, hắn “lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa”. Sự lạnh lùng, tàn ác của A Sử đối với Mị không phải là một trường hợp quá lạ lẫm, trước đó, có người đàn bà cũng đã bị trói đến chết trong nhà này. Đến đây, bức tranh về tội ác dã man của bọn địa chủ phong kiến được hiện lên thật rõ ràng. Đối với chúng, mạng sống con người chẳng khác gì con trâu, con ngựa.
Bên cạnh hình tượng nhân vật Mị là A Phủ, cũng là một nhân vật điển hình cho tội ác của chế độ phong kiến và những hủ tục lạc hậu ở miền núi, một thanh niên mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lao động giỏi “chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê”. Vì đánh con quan, A Phủ bị phạt vạ và từ đó trở thành nô lệ cho nhà thống lí. Có thể thấy, dù là một chàng trai gan góc, mạnh mẽ, nhưng cuối cùng, A Phủ cũng như Mị, không thể thoát khỏi bàn tay tội ác của bọn địa chủ phong kiến, ở đây đại diện là nhà thống lí Pá Tra.
Ở trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng người dân nghèo không đánh giá một đồng. Chỉ vì làm mất bò, A Phủ bị trói đứng giữa trời đông lạnh lẽo. Và giọt nước mắt của anh là giọt nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng. Đây là chi tiết vô cùng đắt giá. Giọt nước mắt ấy chính là yếu tố đánh thức sức sống trong Mị, và cũng trực tiếp thể hiện tâm trạng tuyệt vọng của A Phủ.
Tình cảnh của A Phủ làm Mị nhớ lại đêm mùa xuân mà cô bị A Sử trói nơi cột nhà. Cô chợt cảm thấy xót thương cho chàng trai tội nghiệp kia, xót thương cho tình cảnh của chính mình. Dòng nước mắt của A Phủ như thổi bùng khát vọng sống trong Mị mà lâu nay bị lớp tro tàn phong kiến phủ kín. Hành động Mị cắt dây trói cứu thoát A Phủ và chạy khỏi nhà thống lí Pá Tra là sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng, khao khát tự do hạnh phúc của con người bị áp bức
Có thể nói, bằng tài năng tuyệt vời của mình, Tô Hoài đã xây dựng nên những hình tượng nhân vật vô cùng chân thực và sống động. Nếu Mị là hình tượng tiêu biểu cho phụ nữ miền núi nước ta trong thời kì trước Cách mạng đến những năm kháng chiến chống Pháp thì A Phủ mang nét đẹp tiêu biểu cho những thanh niên dân tộc miền núi Tây Bắc: thật thà, chất phát, khoẻ mạnh tuy bị đẩy vào số phận khổ đau nhưng không nguôi khát vọng tự do.
Bên cạnh bức tranh hiện thực về tội ác của giai cấp thống trị cùng cuộc sống tăm tối của nhân dân, tác phẩm còn là một bài ca về tình người, bài ca về khát vọng sống, khát vọng tự do. Hành động cắt đứt dây trói, bước chân gấp gáp chạy khỏi nhà thống lí và đứng dưới là cờ Cách mạng của Mị và A Phủ chính là sự vùng lên tất yếu của những con người không đầu hàng số phận. Tác giả bày tỏ sự đồng cảm, xót thương nhưng cũng đầy tự hào, ngợi ca khi viết về họ và cuộc đời của họ. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm này.
Về nghệ thuật, tác phẩm cho thấy tài năng trong việc dẫn chuyện và miêu tả tâm lí nhân vật của Tô Hoài. Đặc biệt, dưới ngòi bút miêu tả bậc thầy, Tô Hoài cũng đã phác họa cho người đọc một cuộc xử kiện sống động và giàu sức tố cáo, từ đó vạch trần sự áp bức dã man của bọn thống trị miền núi. Qua giọng kể khi thì khách quan, khi thì nhập vào nhân vật, cùng ngôn ngữ sinh động, chọn lọc, có sáng tạo, bức tranh về thiên nhiên và cuộc sống sinh hoạt của người dân Tây Bắc đã được hiện lên vô cùng chân thật và xúc động.
Tóm lại, có thể khẳng định, “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm mẫu mực nhất khi viết về thiên nhiên và con người miền núi. Qua “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã khẳng định tên tuổi của mình trong văn đàn đồng thời ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc bao thế hệ.
5. Bài văn phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ ngắn gọn nhất:
Tô Hoài là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn học hiện đại Việt Nam đồng thời là một tấm gương cho con người về sức sáng tạo. Cách kể chuyện của Tô Hoài có sức hấp dẫn riêng ở lối kể hóm hỉnh với lời văn giản dị tinh tế mà giàu chất thơ. Trong đó, “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm ghi lại tên tuổi cũng như dấu ấn văn xuôi của nhà văn Tô Hoài.
“Vợ chồng A Phủ’’ được rút ra trong tập “Tây Bắc” kể về cuộc sống của Mị và A Phủ trong nhà thống lý Pá Tra làm nô lệ. Mị trở thành dâu nhà thống lý, phải sống một cuộc sống không giống con người. Ở đó, Mị không chỉ bị giam cầm về thể xác mà còn bị giam cầm cả về tâm hồn của mình. Mị xuất hiện trong lời kể của nhà văn Tô Hoài trong khung cảnh của cuộc sống giàu sang nhưng lại đối lập với tâm thế bên trong con người Mị là mặt buồn rười rượi. Dưới ngòi bút của Tô Hoài gieo vào lòng người đọc những cảm xúc mãnh liệt về số phận con người mà cụ thể là nhân vật Mị. Sự xuất hiện của Mị giúp người đọc hình dung ra số phận của những kiếp người lao động dưới ách thống trị của bọn phong kiến chúa đất.
Với kết cấu hồi tưởng, trần thuật ở hiện tại rồi ngược về quá khứ, Tô Hoài tạo dấu ấn riêng qua lối kể chuyện linh hoạt. Trước khi trở thành vợ thống lý, Pá Tra Mí là một cô gái xinh đẹp, có tài thổi sáo. Đặc biệt, Mị còn là cô gái có nhiều tự trọng, yêu đời và tràn đầy nhựa sống, luôn muốn làm chủ và muốn tự mình quyết định cuộc sống của mình. Tôi trở thành niềm ước ao của bao trai làng. Nhưng cuộc đời đưa đẩy, trái ngược với tất cả những gì cô ấy mong muốn. Chỉ vì muốn giúp bố mẹ trả nợ mà tôi nghiễm nhiên về làm dâu nhà họ Lý. Bị ràng buộc bởi nợ nần Tôi cũng bị ràng buộc bởi phong tục hôn nhân cổ hủ. Nỗi khổ chồng chất cho cô gái trước đây mong muốn có một cuộc sống của riêng mình. Chỉ ở đây, người ta mới thấy cái xã hội mà bọn lang băm, chúa phong kiến miền sơn cước đã bóc lột sức mạnh, cướp đi tự do của biết bao người dân lao động nghèo khổ. Ba chữ “dâu rèn nợ” như hé mở cho người đọc thấy một cuộc đời đầy đau thương và bi kịch mà Mị đang gánh chịu.
Trong thời gian sống cuộc đời làm dâu nhà thống lý Pá Tra, Mị đã phải chịu nhiều đau khổ về thể xác. Mị bị bóc lột sức lao động dã man, phải làm việc suốt ngày đêm, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác. Mị bị trói buộc trong vòng tròn công việc. Dưới ngòi bút của nhà văn Tô Hoài, Mị hiện lên như một công cụ biết nói, một cỗ máy làm việc trong gia đình thống Lý. Rồi hơn một lần Mị thổn thức mình không bằng trâu ngựa. Đời Mị không giống đời người, Mị đang dần bị vật chất hóa. Không những thế, Mị còn bị A Sử – chồng mị đánh đập, hành hạ một cách vô lý. Đỉnh điểm trong đêm tình mùa xuân khi Mị muốn đi chơi nhưng lại bị A Sử trói vào cột. Tô Hoài đứng dưới tư cách của một người ngoài cuộc như đang quay lại những thước phim mà mình công phu thu được. Việc Tô Hoài miêu tả chi tiết hành động tàn ác của A Sử càng khắc họa đầy đủ bản chất tàn bạo, bất nhân của giai cấp thống trị mà A Sử là đại diện tiêu biểu hơn bao giờ hết. Vì vậy, qua đây, ngòi bút của Tô Hoài có sức tố cáo gay gắt. Ngoài ra, cuộc sống của Mị còn bị ràng buộc và tra tấn cả về tinh thần. Mị bị cách ly với thế giới bên ngoài, mất cảm giác về thời gian, bị tước đoạt mọi quyền con người, quyền được sống, được giao tiếp với bên ngoài. Mị hoàn toàn bị vật chất hóa, bị điều khiển bởi sức mạnh và quyền lực của thần quyền. Đến đây, hình ảnh Mị hiện lên chất chứa bao đau thương, bi kịch, qua đó Mị là hiện thân của người con gái miền sơn cước, của những người dân lao động dưới ách thống trị của bọn lãnh chúa.
Tiếp theo trong đêm xuân ái ân cũng là lúc sức sống tiềm tàng trong Mị bừng tỉnh. Tiếng sáo gọi dậy nỗi nhớ thương trong Mị. Nó đánh thức tiếng nói của trái tim tôi, bài hát từ sâu thẳm của Mị. Rồi cũng đánh thức khát vọng tình yêu, hạnh phúc, tuổi trẻ và đánh thức quyền sống của con người trong Mị. Tô Hoài đã dùng nghệ thuật độc thoại nội tâm, thấm ngòi bút của mình sâu vào đời sống tinh thần để miêu tả Mị. Nhà văn miêu tả chi tiết từng hành động “uống rượu” đến diễn biến tâm trạng của Mị để thấy rằng đối phương đang muốn làm chủ số phận của mình, muốn vượt qua số phận của chính mình.
Sau đêm tình xuân nổi loạn bất thành, Mị lại tiếp tục trở về trong im lặng như xưa, tiếp tục công việc nặng nhọc làm tê liệt ý thức con người, đánh đập, tra tấn, làm tê liệt nhân phẩm, làm tê liệt nhu cầu sống cơ bản của người dân và bóng ma thần quyền đã phá hủy ý thức phản kháng của người dân. Và đó chính là nghị lực để Mị trong đêm đông cứu A Phủ, thoát khỏi kiếp người mà Mị và A Phủ không được sống làm người. Những diễn biến trong tính cách, tâm lý Mị đều được nhà văn Tô Hoài làm rõ, tạo sự bất ngờ cho người đọc. Việc miêu tả sức sống tiềm tàng trong đoạn văn chạy trốn của A Phủ cho thấy hiện thân của sức sống tiềm tàng của người dân lao động ở miền núi phía Bắc. Nhà văn không chỉ đồng cảm với số phận của các nhân vật mà còn mở ra cho họ một lối thoát khỏi đau khổ, tủi hờn để được tự do, làm chủ cuộc đời mình. Qua đó, nhà văn ca ngợi sức mạnh của Đảng, của cách mạng giúp nhân dân làm chủ cuộc sống của mình.