“Tiếng hát con tàu” là khúc hát yêu thương của một tấm lòng hướng về nguồn cội khi đã hóa thân “tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”, đây là khúc hát tiêu biểu cho hồn thơ Chế Lan Viên. Bài viết dưới đây sẽ hướng dẫn phân tích Hoàn cảnh ra đời bài thơ Tiếng hát con tàu. Mời các bạn cùng tham khảo.
Mục lục bài viết
1. Tác giả Chế Lan Viên:
Nhà thơ Chế Lan Viên (1920- 1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan. Ông sinh ra tại tỉnh Quảng Trị. Nhà thơ Chế Lan Viên được biết đến là nghệ sĩ đa tài, vừa có thể dạy học, làm báo, làm thơ và tham gia cách mạng.
Sự nghiệp sáng tác:
Phong cách sáng tác của Chế Lan Viên giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám mang nhiều chủ nghĩa cá nhân sâu sắc. Trong những vần thơ trong giai đoạn này, chúng ta dễ dàng bắt gặp một tâm hồn đơn độc, muốn trốn tránh ẩn náu cuộc sống
“Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa…”
Tuy nhiên, sau Cách mạng tháng Tám, phong cách thơ của thi nhân cũng hoàn toàn thay đổi theo hướng rất mới, đi từ cái riêng đến cái chung, từ cá nhân đến tập thể, đi cõi lòng trơ trụi đến thế giới rộng mở của đất nước nhân dân. Những vần thơ của ông cũng như lột xác để mang tiếng nói chung của đất nước, và cũng chính nhà thơ như hóa thân để đổi mới chính mình trong công cuộc hòa nhập.
Phong cách thơ mang giàu chất suy tưởng mang vẻ đẹp trí tuệ phong phú và đa dạng về hình ảnh, luôn tìm tòi và đổi mới nghệ thuật.
– Tác phẩm chính như: Điêu Tàn (1937), ánh sáng và phù sa (1960)…
2. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tiếng hát con Tàu:
“Tiếng hát con tàu” là một bài thơ đầy tình cảm của Chế Lan Viên, nhà thơ và nhà văn nổi tiếng của Việt Nam. Bài thơ này được viết vào những năm 1958 – 1960, thời điểm Nhà nước đang vận động nhân dân miền xuôi lên xây dựng kinh tế miền núi.
Tuy nhiên, bài thơ của Chế Lan Viên không chỉ đơn thuần là một tác phẩm về thời sự, mà nó đã đưa ra những suy nghĩ sâu sắc về đất nước và con người Việt Nam. Bài thơ đã tả lại hình ảnh của một tàu đang chạy trên dòng sông, và tiếng hát của những người lao động trên con tàu đó.
Trong thời kỳ hòa bình, miền Bắc đã bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước. Năm 1958, Đảng và Nhà nước đã phát động phong trào kinh tế vùng cao với sự tham gia nỗ lực của thanh niên, được coi là lực lượng nòng cốt trong cuộc đổi mới đến với những miền đất Tây Bắc,
3. Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài thơ:
Giá trị nội dung:
Bài thơ “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên là một khúc hát tri ân, thể hiện tình cảm yêu quý và sự gắn bó với đất nước và nhân dân. Tác giả đã tìm thấy nguồn cảm hứng và tầm nhìn nghệ thuật mới của mình từ cuộc sống của nhân dân và đất nước. Bài thơ này thể hiện sự khát khao và niềm vui trở về với quê hương, với những người bạn, đồng nghiệp, người thân, và với những giá trị truyền thống của dân tộc.
Giá trị nghệ thuật:
– Sử dụng nhuần nhuyễn các hình ảnh ẩn dụ, so sánh và nhân hóa linh động.
– Hình ảnh thơ phong phú, đa dạng, giàu sức gợi cảm
– Giọng thơ chứa đựng chất suy tưởng và triết lý
4. Bình Giảng về bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên:
Chế Lan Viên là một trong những nhà thơ có tác phẩm lớn và được độc giả yêu mến. Những bài thơ của ông có âm điệu nhẹ nhàng, tràn đầy tình cảm sâu lắng và còn mang một chút táo bạo và sự sáng tạo. “Tiếng hát con tàu” là một bản tình ca tràn đầy yêu thương, một tấm lòng hướng về nguồn cội, với câu “tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu” thể hiện ý thức rõ nhiệm vụ của người sáng tác trong xây dựng đất nước mới. Bài thơ này phản ánh khát khao mãnh liệt của tác giả về một cuộc sống mới, tươi đẹp và đầy hy vọng.
Những kí ức và khát khao cùng với đam mê bất tận với miền đất Tây Bắc hùng vĩ, với “xứ thiêng liêng rừng núi hóa anh hùng”, cùng những kỉ niệm ngày nào về tình nghĩa dân quân cả nước, đã được tái hiện trong tâm trí tác giả. “Năm con đau mế thức một mùa dài” – những ký ức của một thời đã quay trở lại trong đầu tác giả. Những người dân hiền lành hiện ra trong ánh sáng tình thân, là những người anh em với “chiếc áo nâu suốt một đời vá rách”. Nhà thơ nhớ về “thằng em liên lạc”, về “người anh du kích” và những người mẹ “lửa hồng soi tóc bạc”, đã yêu thương, che chở và bảo vệ tác giả trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến. Bên cạnh đó còn có những người mẹ, người anh không phải “núm ruột rứt ra”, nhưng tấm lòng của nhân dân vẫn có giá trị đáng quý, đáng trân trọng đến bao nhiêu! Tình cảm đặc biệt và cảm xúc sâu sắc đã được tác giả truyền tải qua từng câu chữ của tác phẩm.
Tác giả đầy ấn tượng với những kỷ niệm và hình ảnh đặc trưng của miền Tây Bắc, những kí ức về hình ảnh bản sương giăng, đèo mây phủ, những giọng điệu quen thuộc và tưởng chừng lạ lẫm đều tràn ngập trong từng câu thơ. Nhưng chứa đựng trong đó là nỗi nhớ sâu sắc, đậm đà và chân thực về đất và người Tây Bắc, những hình ảnh cụ thể được khái quát và bất ngờ nhưng lại truyền tải một thông điệp to lớn: tình yêu và sự gắn bó mãnh liệt với quê hương.
Bài thơ trên đã tuyệt vời diễn tả cảm xúc và suy nghĩ của tác giả về đất nước và con người. Một cách đơn giản nhưng rất sâu sắc, tác giả đã tóm tắt cả cuộc đời trong hai câu thơ ngắn gọn: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn.”
Những từ ngữ mơ hồ và mông lung trong đoạn thơ đã tạo nên một không gian tưởng tượng đầy hứng khởi và cảm xúc. Từ những cảm nhận về mảnh đất và con người, tác giả đã suy ngẫm về sự kết nối giữa tâm hồn và đất nước. Khi con người gắn bó với đất, nó trở thành một phần của tâm hồn và cảm xúc của chúng ta.
Điều này thật sự rất đáng trân trọng và cần được ghi nhớ. Bởi vì khi ta xa nhà, xa đất nước thì chỉ có những kỷ niệm về quê hương, những người thân yêu và những nơi đã từng sống. Và đó cũng chính là lý do tại sao ta cần nhớ và thương nhớ đất nước, bởi nó là một phần không thể thiếu trong tâm hồn của chúng ta. Phải chăng, chính sợi dây nghĩa tình ấy đã làm sống lại mảnh đất ngỡ như vô tri:
Khi ta ở đất chỉ là nơi đất ở.
Chính nghĩa tình sâu nặng của dân quân đã hóa thân vào mảnh đất khiến cho nó cũng có tâm hồn:
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn.
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn.
Không những thế mạch thơ đang vận động một cách đều đặn theo dòng suy tưởng đột nhiên chúng bị chặn đứng lại bởi nỗi nhớ “bỗng” tràn về. Nhà thơ dành hẳn một đoạn thơ để viết cho nhân vật “em”:
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoa quê hương.
Đoạn thơ như một nốt nhạc đệm rất lạ sang ngang dòng tâm tưởng.
Câu thơ “Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét” có thể không có logic hình ảnh nhưng lại rất đúng với cảm xúc trong tình yêu. Nhà thơ sử dụng các so sánh táo bạo và bất ngờ để tìm cho mình một cách để miêu tả tình yêu. Bằng cách so sánh tình yêu với “đông về nhớ rét”, nhà thơ đưa ra một hình ảnh mạnh mẽ về sự cô đơn và nhớ nhà, điều mà ai cũng có thể cảm nhận được. So sánh tình yêu với “cánh kiến hoa vàng” hay “xuân đèn chim rừng lông trở biếc” cũng mang đến những hình ảnh tươi sáng và lãng mạn, tạo ra một cảm giác thăng hoa và ngọt ngào trong tâm trí người đọc.
Từ những hình ảnh đó, nhà thơ không chỉ miêu tả tình yêu một cách độc đáo mà còn cho thấy tình yêu có thể được biểu hiện và cảm nhận qua nhiều cách khác nhau. Tình yêu có thể là sự cô đơn và nhớ nhà, hoặc là sự rực rỡ và lãng mạn của những loài hoa và chim đầy sắc màu. Những so sánh táo bạo này cũng cho thấy tình yêu là một khái niệm rất đa dạng và không thể giới hạn trong một định nghĩa duy nhất.
Cái rét đầu mùa anh rét xa em
Đêm nay lạnh chăn chia làm hai nửa
Nửa đắp cho em ở vùng biển lạnh
Nửa đắp cho mình ớ phía không em.
Khi tình yêu đến một cách bất ngờ chữ “bỗng” thể hiện nỗi nhớ mà nỗi nhớ đã thiết tha, bồi hồi. Và cái giây phút “bỗng” ấy đã giúp họ tìm thấy nhau và tìm thấy chính mình, tình yêu bỗng hiện ra lung linh sắc màu, giản dị mà thiêng liêng đến nhường nào. Và điều đặc biệt ấy khiến:
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.
Không gì giản dị mà sâu sắc đến vậy, khi trong tình yêu riêng dành cho em còn có cả tình yêu đốì với quê hương đất nước. Bản thân chúng ta cũng chợt nhận ra rằng càng biết yêu thương những điều riêng tư, thì chúng ta càng yêu quê hương tha thiết hơn.
Với những vần thơ đẹp và cảm xúc sâu lắng, tác giả đã tạo ra một thế giới riêng, nơi mà độc giả có thể lạc vào những nỗi nhớ của tình yêu đẹp đẽ. Bài thơ trở thành một tác phẩm kinh điển, là sự tổng hợp của những vần thơ tuyệt vời về tình yêu và quê hương đất nước. Tiếng hát con tàu đã thành công trong việc truyền tải tình cảm chân thành, trong sáng và sự thiết tha một cách chân thật. Tác giả đã thể hiện trí tưởng tượng phong phú và khả năng sáng tạo táo bạo, tạo nên những liên kết bất ngờ. Bài thơ đã ghi dấu nhiều ấn tượng trong tâm trí độc giả.