Biện pháp chống bán phá giá thường được quy định là đánh thuế quan bổ sung lên sản phẩm bị coi là bán phá giá nhằm đẩy giá của sản phẩm đó ngang bằng với “giá trị bình thường” hoặc nhằm chấm dứt thiệt hại mà ngành sản xuất của nước nhập khẩu phải chịu. Cùng bài viết dưới đây tìm hiểu nhé.
Mục lục bài viết
1. Tổng quan về Cơ chế giải quyết tranh chấp (DSM) tại WTO:
a. Mục tiêu của DSM:
Cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO là sự kế thừa các quy định về giải quyết tranh chấp đã có tác động tích cực hơn 50 năm qua trong lịch sử GATT 1947.
Rút kinh nghiệm từ những bất cập của cơ chế cũ, một số cải tiến cơ bản về thủ tục đã được đưa vào cơ chế mới, góp phần quan trọng nâng cao tính chất xét xử của thủ tục này cũng như tăng tính ràng buộc của các quyết định giải quyết tranh chấp. Mục tiêu cơ bản của DSM trong WTO là “đạt được giải pháp tích cực cho tranh chấp” và ưu tiên “các giải pháp được các bên tranh chấp thống nhất và phù hợp với các Hiệp định”. Ở quy mô rộng hơn, cơ chế này nhằm cung cấp các thủ tục giải quyết tranh chấp đa phương thay thế cho các hành động đơn phương của các quốc gia thành viên, gây ra nhiều nguy cơ bất công, trì trệ và xáo trộn trong hoạt động chung của các quy tắc thương mại quốc tế.
b. Khung pháp lý và nguồn
Trên cơ sở các quy định riêng biệt về giải quyết tranh chấp trong GATT, WTO đã thành công trong việc thiết lập cơ chế pháp lý đầy đủ và chi tiết trong một văn bản thống nhất giải quyết tranh chấp thương mại giữa các thành viên WTO (bao gồm các quốc gia có chủ quyền và các lãnh thổ hải quan riêng biệt):
– Thỏa thuận về Quy tắc và Thủ tục Điều chỉnh Giải quyết Tranh chấp (DSU)
– Phụ lục 2 của Hiệp định Marrakesh thành lập WTO. Ngoài ra, cơ chế này còn được đưa vào một số quy định riêng trong các văn bản khác (được DSU dẫn chiếu) như: Điều XXII và XXIII của GATT 1947 (Điều 3.1 DSU)
– Các quy tắc, thủ tục cụ thể hoặc bổ sung để giải quyết tranh chấp trong các Hiệp định WTO (Ví dụ: Điều 11.2 của Hiệp định về các biện pháp kiểm dịch thực vật; Điều 17.4 đến 17.7 của GATT 1994…)
“Quyết định về Thủ tục giải quyết tranh chấp đặc biệt” GATT 1966: bao gồm các quy tắc áp dụng để giải quyết tranh chấp giữa một quốc gia kém phát triển nhất và một quốc gia phát triển (Điều 3.12 của DSU) và các thủ tục đặc biệt áp dụng cho các tranh chấp liên quan đến một bên là quốc gia kém phát triển nhất (Điều 2.4) DSU). DSM của WTO này là bắt buộc đối với tất cả các nước thành viên, theo đó mỗi thành viên có một khiếu nại, tranh chấp với thành viên khác và buộc phải đưa tranh chấp ra giải quyết theo cơ chế này. Quốc gia Thành viên bị khiếu nại không có lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận tham gia giải quyết tranh chấp theo thủ tục của cơ chế này. Đây chính là điểm tạo nên sự khác biệt cũng như hiệu quả hoạt động của cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO so với các cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế hiện có (thẩm quyền giải quyết của các cơ chế truyền thống không bắt buộc mà phải được sự chấp thuận của các nước liên quan).
c. Cơ quan giải quyết tranh chấp
Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB): Cơ quan này thực chất là Đại hội đồng WTO, bao gồm đại diện của tất cả các quốc gia thành viên. DSB có quyền thành lập ban hội thẩm, thông qua các báo cáo của ban hội thẩm và cơ quan phúc thẩm, giám sát việc thực hiện các quyết định, khuyến nghị giải quyết tranh chấp và cho phép tạm dừng thực hiện nghĩa vụ. và nhượng bộ (trả thù). Tuy nhiên, DSB chỉ là cơ quan ra quyết định chứ không trực tiếp tiến hành xem xét giải quyết tranh chấp.
Ban hội thẩm: Ban hội thẩm này bao gồm từ ba đến năm thành viên có nhiệm vụ xem xét một vấn đề cụ thể đang tranh chấp trên cơ sở các quy định của WTO mà quốc gia khiếu nại viện dẫn. Kết quả công việc của Ban Hội thẩm là một báo cáo được đệ trình lên DSB để thông qua, giúp DSB đưa ra khuyến nghị cho các Bên tranh chấp. Trên thực tế, đây là cơ quan trực tiếp giải quyết tranh chấp dù không nắm quyền quyết định (vì với nguyên tắc đồng thuận phủ quyết, mọi vấn đề giải quyết tranh chấp đã đưa ra trước DSB đều được “tự động” thông qua).
Cơ quan phúc thẩm (SAB): Cơ quan phúc thẩm là cơ quan mới trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, cho phép các báo cáo của ban hội thẩm được xem xét (khi được yêu cầu), đảm bảo tính chính xác của báo cáo giải quyết tranh chấp. Việc thành lập cơ quan này cũng thể hiện rõ hơn tính chất xét xử của thủ tục giải quyết tranh chấp mới.
2. Thực trạng tranh chấp chống bán phá giá tại WTO:
Quay trở lại 25 năm trước kể từ vụ tranh chấp chống bán phá giá đầu tiên giữa Mexico và Venezuela (DS23) [1] đối với một số mặt hàng ống thép của nước dầu mỏ (OCTG) nhập khẩu từ Mexico, có thể kết luận rằng không có đặc điểm riêng hay chung loại sản phẩm hoặc quốc gia đã hoặc sẽ liên quan đến tranh chấp chống bán phá giá. Tuy nhiên, trong 25 năm giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế nói chung và tranh chấp chống bán phá giá nói riêng, WTO đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của các thành viên về một DSM rõ ràng, kịp thời và hiệu quả với một số số liệu thống kê đáng chú ý sau:
Xét về tổng số vụ việc, WTO đã giải quyết tổng cộng 137 vụ kiện chống bán phá giá trong thời gian này, khiến đây trở thành loại tranh chấp phổ biến nhất trong hệ thống WTO. Tổng cộng gần sáu trăm yêu cầu tham vấn đã được gửi tới các thành viên WTO từ năm 1995 đến năm 2020.
Trong 5 năm gần đây nhất, 2018 là năm xảy ra nhiều vụ việc nhất (38 vụ) và số vụ tranh chấp có xu hướng giảm đáng kể kể từ đó, chỉ còn 5 vụ vào năm 2020.
Về các sản phẩm tranh chấp, tranh chấp chống bán phá giá trong khuôn khổ WTO chủ yếu liên quan đến thép, thủy sản, điện thoại di động, giày dép, dệt may, dược phẩm và các nhóm hàng khác.
Đối với các quốc gia liên quan đến tranh chấp, mức độ tham gia của các thành viên WTO phát triển và đang phát triển với tư cách là bên khiếu nại và bị đơn chống bán phá giá có sự khác biệt đáng kể. Các thành viên của nhóm phát triển chủ yếu đóng vai trò là người trả lời, trong khi những người trong nhóm phát triển thường đứng về phía người khiếu nại. Trong số đó, Hoa Kỳ là quốc gia dẫn đầu về số vụ tranh chấp với tổng số 54 vụ (7 lần với tư cách nguyên đơn và 47 lần với tư cách bị đơn).
Về các vấn đề tranh chấp, kiện tụng cụ thể, tranh chấp chống bán phá giá chủ yếu là các vấn đề liên quan đến nguyên tắc (Điều 1 với 85 vụ việc); xác định bán phá giá (Điều 2 với 49 vụ việc, 57 vụ tranh chấp về việc so sánh giữa giá xuất khẩu và giá trị thông thường theo Điều 2.4); vấn đề chứng cứ (Điều 3 với 41 trường hợp); và vấn đề thông tin tốt nhất (Điều 4 với 41 trường hợp). Điều 9 về thuế và thu thuế chống bán phá giá được sử dụng trong 31 trường hợp, tiếp theo là Điều 7 về các biện pháp tạm thời trong 14 trường hợp và Điều 8 về biện pháp cam kết giá mới trong 4 trường hợp.
Do đó, có thể rút ra một số nhận xét từ những nhận xét hiện nay về việc giải quyết các vấn đề về thuế chống bán phá giá trong WTO, bao gồm:
Thứ nhất, tranh chấp chống bán phá giá cho đến nay là loại tranh chấp phổ biến nhất được WTO giải quyết. Điều này một phần là do các nước ngày càng áp dụng các biện pháp chống bán phá giá như một công cụ để bảo vệ các ngành công nghiệp địa phương. Chừng nào còn nhiều vụ kiện chống bán phá giá thì sẽ có rất nhiều xung đột và theo đó sẽ phức tạp hơn.
Thứ hai, loại tranh chấp chống bán phá giá phổ biến nhất của WTO là xung quanh thuế chống bán phá giá chính thức. Sau đây là những lý do có thể thực hiện được cho việc này: (i) Về bản chất, các biện pháp tạm thời có tác động hạn chế do hiệu lực tạm thời và chỉ áp dụng ngắn hạn trong giai đoạn điều tra; (ii) Nhà xuất khẩu phải đồng ý về biện pháp cam kết về giá, đây là biện pháp tự nguyện, nhưng trên thực tế, chỉ có một số công ty có thể sử dụng thước đo này; (iii) Do hầu hết các thành viên đều cố gắng đảm bảo rằng luật pháp quốc gia của họ tương thích với luật WTO nên các tranh chấp phát sinh từ các lý do pháp lý khác như sự không nhất quán giữa quy định pháp luật của một thành viên và nội dung Hiệp định Chống bán phá giá (ADA) trở nên ít phổ biến hơn; (iv) Trong khi đó, thuế chống bán phá giá được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và có hiệu lực lâu dài chắc chắn sẽ tạo ra rào cản, thách thức thực sự đối với sản phẩm nhập khẩu.
Thứ ba, về mặt sản phẩm liên quan đến tranh chấp và kiện tụng sau đó, các sản phẩm này chủ yếu thuộc nhóm sản phẩm xuất khẩu của các nước thành viên đang phát triển, có lợi thế và thế mạnh cạnh tranh so với các nước khác.
Thứ tư, dưới sự hỗ trợ và tư vấn của Trung tâm Tư vấn về Luật WTO, một số thành viên đang phát triển đang trở nên tích cực và nhiệt tình hơn trong việc tham gia giải quyết các tranh chấp chống bán phá giá, cho thấy niềm tin của họ vào DSM và sự tự tin của họ ngày càng tăng cao. Quả thực, nhiều trường hợp đã được ghi nhận từ năm 1995 trong đó các thành viên đang phát triển đã giành được thắng lợi. Ví dụ: DS58: Hoa Kỳ — Các biện pháp chống bán phá giá đối với một số tôm từ Việt Nam (Thái Lan), DS404: Hoa Kỳ – Tôm nhập khẩu (Việt Nam), DS345: Hoa Kỳ — Chỉ thị trái phiếu hải quan đối với Hàng hóa phải chịu thuế chống bán phá giá/chống trợ cấp, v.v. Sự tham gia tích cực đó rất đáng được khuyến khích vì nó giúp thu hẹp sự khác biệt giữa các thành viên phát triển và đang phát triển. Tuy nhiên, đa số các thành viên đang phát triển tại WTO vẫn chưa hoặc chỉ tham gia một phần vào việc giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế, đặc biệt là tranh chấp chống bán phá giá, có lẽ do thiếu nguồn lực tài chính và nhân lực để khởi kiện, thiếu kinh nghiệm trong việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. giải quyết tranh chấp, v.v.
3. Ví dụ về giải quyết một số vụ kiện về chống phá giá của WTO:
a. Australia kiện Trung Quốc lên WTO về thuế nhập khẩu rượu vang
Vào ngày 19 tháng 6, Úc cho biết họ sẽ nộp đơn khiếu nại lên Tổ chức Thương mại Thế giới (WHO) về mức thuế chống bán phá giá của Trung Quốc đối với rượu vang nhập khẩu từ Úc.
Trong thông báo, Chính phủ Úc nhấn mạnh rằng quyết định này “nhằm bảo vệ các nhà sản xuất rượu vang Úc” và phù hợp với “sự hỗ trợ của chính phủ đối với hệ thống thương mại dựa trên quy tắc”. Tuy nhiên, thông báo lưu ý thêm rằng “Úc vẫn sẵn sàng thảo luận trực tiếp với Trung Quốc để giải quyết vấn đề này”.
Mối quan hệ thương mại giữa Úc và Trung Quốc ngày càng xấu đi khi nền kinh tế lớn thứ hai thế giới liên tục đưa ra các quyết định áp thuế cao đối với hàng hóa của Úc.
Nhiều sản phẩm xuất khẩu mạnh của Australia phải chịu thuế cao hoặc bị đình chỉ nhập khẩu vào Trung Quốc, như lúa mạch, bông, thịt bò, tôm hùm, rượu vang, gỗ và than đá.
Mới đây nhất, ngày 26/3, Bộ Thương mại Trung Quốc công bố áp thuế chống bán phá giá từ 116,2% đến 218,4% đối với rượu vang Australia nhập khẩu, có hiệu lực trong 5 tháng. năm sau. Trung Quốc là thị trường xuất khẩu rượu vang lớn của Australia.
Tuy nhiên, khối lượng xuất khẩu rượu vang Úc sang Trung Quốc đã giảm 29% xuống còn 96 triệu lít vào năm ngoái.
Trước đó, vào tháng 12/2020, Australia đã chính thức kiện Trung Quốc ra WTO vì áp thuế cao hơn 80% đối với lúa mạch xuất khẩu của Australia.
Các quan chức Bộ Ngoại giao và Thương mại Australia cho biết giá trị thương mại của Australia với Trung Quốc trong hầu hết các ngành công nghiệp đã giảm mạnh 40% kể từ khi căng thẳng thương mại gia tăng.
b. Vụ kiện DS404 – vụ tranh chấp về chống bán phá giá
DS404 là vụ tranh chấp chống bán phá giá đầu tiên mà Việt Nam khởi kiện tại WTO.
Ngày 1 tháng 2 năm 2010, Chính phủ Việt Nam gửi yêu cầu tham vấn tới Chính phủ Hoa Kỳ về biện pháp chống bán phá giá đối với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam.
Các bên tham gia bao gồm: Việt Nam (nguyên đơn); Hoa Kỳ (bị cáo); Bên thứ ba: EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mexico, Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ.
Cụ thể, Việt Nam khiếu nại các biện pháp sau đây của USDOC vi phạm quy định của WTO:
Sử dụng phương pháp Zeroing trong tính toán biên độ dao động bán phá giá;
Hạn chế số lượng bị cáo được lựa chọn để điều tra trong quá trình điều tra ban đầu và xem xét hành chính;
Cách xác định mức thuế áp dụng đối với bị cáo không được tự nguyện lựa chọn tham gia điều tra tại lần xem xét hành chính lần 2 và lần 3;
Phương pháp xác định lãi suất quốc gia dựa trên thông tin sẵn có gây bất lợi cho doanh nghiệp Việt Nam khi không chứng minh được tính độc lập trong hoạt động sản xuất kinh doanh với Nhà nước.
=> Kết quả: Ngày 11/7/2011, Ban Hội thẩm ra báo cáo tuyên bố Việt Nam thắng kiện và yêu cầu Mỹ điều chỉnh các biện pháp liên quan theo quy định của WTO.
Theo đó, chúng tôi có một số ý kiến về vụ kiện này như sau:
Đối với bài toán Zeroing: Phương pháp Zeroing là tách riêng từng giao dịch và chỉ lấy những giao dịch có biên độ dương để tính khối lượng dump. Các giao dịch có biên độ phá giá âm được coi là không bán phá giá và không được tính vào khối lượng bán phá giá tổng thể. Phương pháp này được gọi là “zeroing” và là một chủ đề được tranh luận sôi nổi trong hoạt động chống BPG quốc tế. Không chỉ gây bất lợi hơn cho doanh nghiệp xuất khẩu, phương pháp zeroing còn thiếu thuyết phục về tính công bằng vì nó sẽ làm sai lệch không chỉ biên độ phá giá mà còn cả kết luận về sự tồn tại của nó. đổ rác hay không.
Bằng việc áp dụng phương pháp tính toán không hợp lý thông qua phương pháp Zeroing, DOC kết luận Việt Nam bán phá giá vào ngày 1/2/2005 và ra lệnh áp thuế chống bán phá giá đối với các nhà xuất khẩu tôm Việt Nam. Miền Nam: Công ty thủy sản Minh Phú (4,21%), Công ty cổ phần chế biến thủy sản Minh Hải (4,13%), Tổng công ty chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản đông lạnh Cà Mau (4,99%) là 3 doanh nghiệp Việt Nam bị bắt buộc trong vụ kiện.
Quyết định của DOC về mức thuế cuối cùng để áp dụng xem xét hành chính lần 2 là không công bằng và đã đẩy doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam vào tình thế rất khó khăn vì doanh nghiệp Việt Nam được DOC lựa chọn để điều chỉnh mức thuế. Điều tra, tính thuế suất riêng lẻ (Minh Phú và Camimex) đều có thuế suất không đáng kể (làm tròn bằng 0). Mặc dù đã nộp đơn xin xem xét lại thuế suất nhưng doanh nghiệp là bị đơn Việt Nam tự nguyện không được phép xem xét số liệu, tài liệu của DOC để tự tính thuế và cũng không được hưởng thuế suất 0 khi thuế suất là 0. tính cho tất cả các bị cáo được yêu cầu là bằng 0 hoặc không đáng kể.
Trước khi ADA năm 1994 được ban hành, WTO không có quy định cụ thể về vấn đề “zeroing”. Vì vậy, cách tính này vẫn được các nước phát triển như EU, Mỹ áp dụng rộng rãi để bảo vệ ngành sản xuất trong nước. Tuy nhiên, khi ADA năm 1994 của WTO được ban hành, phương pháp tính 0 được hiểu là không được phép áp dụng trong quá trình tính biên độ phá giá. WTO đã thể hiện rõ quan điểm này trong các án lệ tiếp theo của mình, ví dụ như vụ Bed Linen và vụ Mỹ – Lumber V năm 2004.
Do đó, cơ quan phúc thẩm kết luận việc tính biên độ phá giá theo giao dịch kết hợp với phương pháp zeroing là vi phạm yêu cầu so sánh công bằng tại Điều 2.4 của ADA. Vì vậy, không cần phải kết luận thêm rằng phương pháp này vi phạm bất kỳ quy định nào khác của WTO nhằm giúp giải quyết tranh chấp hoặc thi hành phán quyết. Kết luận này của Ban Hội thẩm phù hợp với kết luận của nhiều tranh chấp trước đây của WTO về các vấn đề tương tự, đảm bảo sự công bằng trong việc áp dụng luật WTO và tạo môi trường kinh doanh lành mạnh cho Doanh nghiệp. .