Hai đứa trẻ được xuất bản năm 1938 trong Nắng trong vườn. Tác phẩm là một lát cắt hiện thực cuộc sống nơi phố huyện nghèo từ chiều tà cho đến đêm khuya. Hãy cùng chúng tôi tham khảo những bài viết cảm nhận về số phận của con người qua tác phẩm để hiểu rõ hơn giá trị hiện thực mà tác giả đã gửi gắm.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý cảm nhận về những kiếp người trong Hai đứa trẻ:
1.1. Mở bài:
Giới thiệu về tác giả Thạch Lam và tác phẩm.
1.2. Thân bài:
a. mẹ con chị Tí
– Mẹ con chị Tí xuất hiện trong tác phẩm khi “trời bắt đầu tối”, họ đã “vào ngõ”.
– Bạn Tí cõng hai cái ghế trên lưng, trên tay cầm một đống lửa.
– Chị Tí đội chiếc chõng tre, hai tay gánh tất cả “gia tài” để gánh nước.
– Một người phụ nữ một mình mưu sinh bằng nghề mò cua bắt ốc, bán chè lam, nuôi con côi cút trong cảnh nghèo khó, còn gì đáng thương hơn.
– Tí và Liên đối thoại uể oải => cạn kiệt năng lượng sống.
b. bà cụ Thi
– Bà cụ Thi đột ngột xuất hiện với tiếng cười ma quái trong bóng tối cũng là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc sống bế tắc trong xã hội.
Bà nâng ly rượu lên, nhìn nó rồi nhấp một ngụm.
– Hành động “dúi vào tay Liên ba đồng xu và vỗ nhẹ vào đầu” của Thị: một trái tim thiếu thốn tình cảm.
– Bà bước ra bóng tối rồi lại vào bóng tối, trong tiếng cười như một cái vòng luẩn quẩn của chính cuộc đời anh.
c. Bác Siêu và gia đình chú Xẩm
– Liên và An nhận ra gánh phở của Bác Siêu bởi mùi thơm đặc trưng của món ăn sang trọng.
– Người đàn ông với “bóng to đổ dài cả dải đất kéo dài đến tận hàng rào hai bên ngõ” đang quây quần bên đống lửa mưu sinh chờ khách từ Hà Nội vào ăn nhưng đoàn tàu đã không dừng lại.
– Vợ chồng bác Xẩm ngồi một mình, quây quần trong bóng tối. Giữa chiếc chiếu rách nát là một đứa trẻ nhỏ đang lúi húi “đùa nghịch nhặt đất vùi trong cát ven đường”.
– Tiếng đàn cùng với tiếng dế kêu khiến không khí phố huyện càng về đêm càng náo nhiệt, nôn nao.
– Đem tiếng hát để mua vui, mong ai đó mở lòng mà cho năm ba hào cứu đói.
d. chị em Liên
– Họ là những đứa trẻ nghèo sống trong một phố huyện tồi tàn, nghèo nàn.
– Khi trời vừa nhá nhem tối, chợ đã tấp nập người mua kẻ bán, lũ trẻ thoắt ẩn thoắt hiện “cúi xuống đất, vừa đi vừa mò mẫm. Chúng nhặt những thanh tre, nan tre” mong tìm được một “niềm hy vọng” giữa bao nhiêu điều ra đi.
– Hai chị em Liên thay phiên nhau đến quán tạp hóa nhỏ của gia đình mong lượm lặt được chút ít để trang trải cuộc sống.
-Ban đêm lũ trẻ chỉ biết nhìn sao trên trời, nhìn ánh sáng trời mơ màng, chờ chuyến tàu đêm chờ vài chú đom đóm.
1.3. Kết bài:
Đánh giá chung về số phận của con người trong tác phẩm Hai đứa trẻ
2. Cảm nhận về những kiếp người trong Hai đứa trẻ hay nhất:
Thạch Lam là một trong những cây bút xuất sắc của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Truyện của ông thường nhẹ nhàng, giản dị nhưng gợi một nỗi buồn man mác về cuộc đời, kiếp người. Hai đứa trẻ là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật đó. Kết hợp chặt chẽ giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn đan xen với lối viết nhẹ nhàng, tác giả đã tái hiện thành công không khí buồn tẻ của phố huyện nghèo vào một buổi tối mùa hè tĩnh lặng. Đọc Hai đứa trẻ, chúng ta không khỏi xót xa cho một mảnh đời bất hạnh xoay quanh những mảnh đời bế tắc trong xã hội bấy giờ.
Trong tác phẩm, những kiếp người khốn khổ được Thạch Lam tái hiện qua không gian phố huyện với những ánh đèn leo lét trong đêm tối. Đầu tiên phải kể đến mẹ con chị Tí. Mẹ con chị Tí xuất hiện trong tác phẩm khi “trời bắt đầu tối”, họ đang ở “đầu ngõ” với đống đồ lặt vặt nhưng chẳng mấy giá trị. Con anh Tí cõng hai cái ghế trên lưng, trên tay cầm một đống lửa. Còn cô thì đội chiếc chõng tre, hai tay gánh tất cả “gia sản” của mình để gánh nước. Chạng vạng, đêm tối cận kề, hình ảnh mẹ con chị Tí bước ra từ đầu ngõ – một không gian vô định với cơi trầu, đám đông, ấm chè xanh và ngọn đèn dầu leo lét giữa đêm khuya. của một thị trấn nghèo, khắc họa bi kịch của kiếp người. Người đàn bà một mình mưu sinh bằng nghề mò cua bắt ốc, bán nước chè xanh, nuôi trẻ mồ côi trong hoàn cảnh nghèo khó, không gì đáng thương hơn. Đọc những dòng viết về mẹ con chị Tí, ta như thấy thân phận của người phụ nữ trong ca dao xưa, những “thân cò” lam lũ nhưng chịu thương, chịu khó:
“Cái cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Nàng về nuôi cái cùng con
Cho anh đi trẩy nước non Cao Bằng?”
Liên thắc mắc: “Sao hôm nay dọn đồ về muộn thế?” trước câu trả lời cay đắng của Tí: “Em ơi, sớm muộn có sao đâu”. Trong câu nói ấy chất chứa nỗi buồn về cuộc sống mưu sinh. Không gian nhuốm màu u ám, lòng người đắm chìm trong tiếng xì xụp đáng thương của người phụ nữ ngồi uể oải nhai trầu. Chút sức sống trong lời nói và hành động của nhân vật dường như cạn kiệt khi nguồn năng lượng sống trong họ cạn kiệt.
Trong không gian tăm tối, ngột ngạt của phố huyện, thị bỗng hiện lên với tiếng cười như một bóng ma trong đêm tối, mang nỗi đau về một kiếp người bế tắc trong xã hội. Thị là người nghiện rượu, ngay cả những đứa trẻ con như chị em Liên cũng thấy vậy. Theo thói quen, khi Thị xuất hiện trong tiếng cười của hắn, Liên để ý mà “lặng lẽ rót một ly rượu đầy”. Anh nâng cốc lên nhìn, rồi nhìn lại và tu một hơi đầy. Rõ ràng, với bà Thi, rượu trở thành một thứ gì đó vô cùng quý giá, khiến bà cả thèm chóng sợ. Trong mắt những đứa trẻ như chị em Liên, hình ảnh người bà lúc này không phải là sự độ lượng, nhân hậu, dịu dàng mà là một bà già điên khùng thèm rượu. Hành động “giúi ba đồng xu vào tay Liên và vỗ đầu em” của bà cụ Thị khiến người đọc nghẹn ngào. Đằng sau con người điên rồ ấy là một trái tim vô cảm. Trời đã xế chiều nhưng người phụ nữ vẫn một mình. Mẹ con chị Tí tuy nghèo khổ, cơ cực nhưng vẫn một mẹ một con, sớm tối bên nhau, còn bà Thi thì trơ trọi, như một thân cây trơ trụi giữa giông tố cuộc đời. Bà bước ra bóng tối rồi lại vào bóng tối, trong tiếng cười như cái vòng luẩn quẩn của chính cuộc đời anh. Đó là một tình huống đáng thương.
Cuộc sống đang lụi tàn của phố huyện được tô điểm bằng sự xuất hiện của gia đình bác Siêu, bác Xẩm. Bác Siêu xuất hiện khi màn đêm bao phủ phố huyện. Liên và An nhận ra gánh phở của chú Siêu bởi mùi thơm đặc trưng của những món ăn sang trọng. Cùng với hình ảnh mẹ con chị Tí, bác Siêu hiện lên thật đẹp nhưng cũng thật buồn. Người đàn ông với cái bóng “cười” dài trên dải đất kéo dài đến tận hàng rào hai bên ngõ” đang nhóm lửa kiếm sống, mong khách từ Hà Nội vào ăn nhưng chẳng đủ tiêu.
Thật đáng buồn! Cuộc sống của gia đình bác Xẩm cũng không khá hơn là bao. Hai vợ chồng ngồi một mình, co ro trong bóng tối. Giữa chiếc chiếu rách nát là một đứa trẻ nhỏ đang lúi húi “đùa nghịch nhặt đất vùi trong cát ven đường”. Tiếng đàn cùng với tiếng dế kêu đêm khuya càng làm cho không khí trong huyện thêm sôi động, xao xuyến. Đem tiếng hát mua vui, mong ai đó mở lòng cho năm ba xu để đỡ đói, nhưng giữa cuộc sống khốn khó như vậy, chẳng ai còn tâm trạng nghe và thưởng thức nghệ thuật. Chiếc nồi sắt trắng xóa treo trên chiếc chiếu rách nát, không một xu dính túi khiến chúng tôi xót xa cho cuộc sống của họ trong những ngày sắp tới.
Những đứa con nơi phố huyện cũng góp phần tô điểm cho bức tranh cuối đời của Thạch Lam. Khác với những đứa trẻ được bảo bọc, che chở, vui chơi, những đứa trẻ này phải thích nghi với thực tế thiếu thốn, nghèo khó. Họ trở thành “người lớn” trong một cách kiếm sống và tồn tại, họ đánh mất tuổi thơ giữa tuổi thơ vì đói nghèo. Khi trời vừa chạng vạng, chợ đã đông nghịt người mua, lũ trẻ bỗng xuất hiện “cúi xuống đất, vừa đi vừa mò mẫm. Chúng nhặt những thanh tre, nan tre” mong tìm được một “niềm hy vọng” nhỏ nhoi giữa sự hỗn loạn. Những động từ như “cúi, mò, lượm” đều gợi tả dáng vẻ nhỏ bé, đáng thương của những đứa trẻ ấy.
Ngay cả chị em Liên – nhân vật chính của câu chuyện cũng không nằm ngoài số phận đó. Vốn là con một gia đình giàu có ở Hà Nội, nhưng khi bố thất nghiệp, cả gia đình phải rời thành phố về quê. Mẹ Liên chắc bận làm loạn lắm. Hai chị em Liên thay nhau đi bán tạp hóa nhỏ của gia đình mong kiếm được chút tiền trang trải cuộc sống. Đêm về, lũ trẻ chỉ biết nhìn sao trên trời, nhìn ánh sáng trời mơ màng, chờ chuyến tàu đêm chờ vài chú đom đóm.
Ai đó đã từng nói: “Đời người thực sự là một mê cung, ở đó người ta cố đi đến cùng”. Câu nói ấy hẳn rất đúng với những kiếp người đã khuất trong Hai đứa trẻ. Nỗi xót xa, ngậm ngùi, cảm thương nảy sinh trong lòng ta khi đọc Hai đứa trẻ. Cảm ơn Thạch Lam đã mang đến những hương vị đầy dư âm của cuộc đời để chúng ta thấy rằng cuộc đời không nhất thiết phải “buồn”, để biết yêu thương, trân trọng và đồng cảm với tất cả những mảnh đời, những số phận trong cuộc đời.
3. Cảm nhận về những kiếp người trong Hai đứa trẻ ấn tượng nhất:
Hai mươi năm đã trôi qua, bạn đọc vẫn chưa quên một bóng dáng khiêm tốn, chậm rãi, rất nhân hậu, bước những bước rất nhẹ vào làng văn Việt Nam hiện đại, mang theo những trang thơ nồng nàn. Như Nguyễn Tuân đã nói: “Sáng tác của Thạch Lam mang một cái gì nhẹ nhàng tươi mát”. Ta bắt gặp những cảm xúc ấy không chỉ trong “Dưới bóng hoàng lan”, “Gió lạnh đầu mùa” hay “Cô hàng xén”, “Hai đứa trẻ” một lần nữa đưa ta vào thế giới của trẻ thơ với nhiều cung bậc nhẹ nhàng, buồn bã.
Đến với “Hai đứa trẻ”, trước hết ta được đắm chìm trong bức tranh thiên nhiên và cuộc sống của người dân phố huyện qua con mắt tinh tường của cô bé Liên – nhân vật chính trong truyện. Bức tranh thiên nhiên được gói gọn trong hai từ “êm ả” và “buồn bã”. Có tiếng chiêng tiếng trống gõ từng hồi, tiếng ếch nhái kêu cảnh thanh bình của làng quê, tiếng muỗi vo ve làm nổi bật sự nghèo khó. Không gian được mở ra bởi màu “đỏ rực” của miền Tây, màu “hồng” của mây, màu “đen” của lũy tre làng. Có chút yên bình, tĩnh lặng nhưng cũng nhiều thê lương, buồn bã, đưa ta vào một không gian nửa lạ nửa quen, nửa quê, nửa tỉnh, với những cảm xúc nhẹ nhàng.
Phố huyện được mở rộng theo không gian của một phiên chợ chết: “Mọi người đã về, ồn ào không còn. Dưới đất chỉ còn rác, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, lá mía.” Không còn là “chợ làng chài”, chợ chiều thưa thớt, không còn tấp nập, nổi bật sự tàn tạ.
Xuất hiện trong khung cảnh tranh tối tranh sáng, chợ tàn là cuộc sống của con người. Không phải là người nông dân bị sưu cao, sưu cao đuổi bắt như trong tác phẩm của Ngô Tất Tố, Nam Cao. Không phải những ông quan Tây học, cô gái quê sống thanh bình dưới làn khói lam chiều như trong tác phẩm của Nhất Linh, Hoàng Đạo. Phận người mà Thạch Lam quan tâm là kiếp người nhỏ bé, không tên, sống chết trong xã hội đen tối.
Thạch Lam viết về họ bằng tất cả nỗi nhớ da diết từ “lòng thành” của mình. Có những đứa trẻ nghèo “cúi đầu” nhặt những chiếc tăm tre còn sót lại trên nền chợ, có mẹ con chị Tí với cửa hàng nhỏ nhưng sạch sẽ hàng đêm, có bà Thi với giọng hát của bà. Cười ghê rợn, bước vào bóng tối, là chú Siêu với mấy người đang ăn phở, gia đình chú với tiếng đàn chập chờn trong đêm. Họ đều là những con người nhỏ bé, sống từng ngày trì trệ trên “mặt phẳng của cuộc đời”. Viết về những kiếp người không tên ấy, Thạch Lam bày tỏ sự trăn trở sâu sắc về cuộc đời của hai đứa trẻ. Ở giữa lứa tuổi hồn nhiên, Liên và An phải bươn chải để lo cho cuộc sống gia đình. Hai chị em giúp mẹ trong một gian hàng nhỏ do một bà già thuê, ngăn cách bằng tấm phên tre có dán giấy. Thức ăn chỉ là một ít sơn đen hoặc một vài bánh xà phòng. Những vất vả đã qua, nhưng điều khiến chúng tôi xót xa hơn là đời sống tinh thần của hai đứa trẻ ấy dường như đang dần dậm chân tại chỗ. Họ phải tự nhốt mình trong không gian tăm tối của thành phố hàng ngày, cầm cố tuổi trẻ và có thể sẽ không bao giờ biết đến thế giới xa xôi ngoài kia.
Nhưng là một người “yêu và kính trọng cuộc sống”, Thạch Lam sẽ không bao giờ dừng lại ở việc phản ánh hiện thực cuộc sống cho dù hiện thực đó có chân thực đến đâu. Cố gắng tìm tòi, thấu hiểu những viên ngọc tiềm ẩn trong mỗi con người, đào sâu vào “cái đẹp nơi không ai ngờ tới”, đó là điều mà Thạch Lam luôn mong muốn thực hiện. Đành rằng Thạch Lam ra đời là để trung hoà hai khuynh hướng sáng tạo, có lẽ điều đó được thể hiện rõ nét nhất qua vẻ đẹp tâm hồn của cô bé Liên được nhà văn viết nên bằng cảm hứng lãng mạn. Giữa thành phố nghèo và xập xệ, những cảm xúc nhạy cảm của một cô gái nhỏ biết rung động trước thiên nhiên vẫn tỏa sáng rực rỡ. Liên nghe tiếng chiều rơi mà tự nhủ: “Chiều ơi là chiều Một chiều êm đềm như lời ru”, ở đó cô thấy lòng thanh thản, thấy lòng mình “tiếc hùi hụi trước giờ làm”. Nghe mùi ẩm bốc lên từ nền chợ, tưởng là “mùi của đất, của quê hương”. Trong cuộc đời đang tàn, mấy ai cảm nhận được từ “đêm hè mượt như nhung” làn gió nhẹ thoảng qua, làm mát dịu tâm hồn, mấy ai để ý những bông hoa rơi nhẹ trên vai, chỉ hơi buồn trước sự yên bình và tĩnh lặng.
Không chỉ có tâm hồn sắc sảo mà Liên còn có tấm lòng nhân ái sâu sắc, sự đồng cảm nồng nhiệt với những mảnh đời bé nhỏ xung quanh mình. Cuộc sống không khá giả hơn chúng tôi nhưng không vì thế mà Liên khép lòng thương hại những đứa trẻ tội nghiệp, hay ít quan tâm đến mẹ con chị Tí. Cô cũng không ngại rót đầy ly rượu cho bà Thi, không thờ ơ với gánh phở của gia đình bác Siêu và bác Xẩm. Phải chăng sự cảm hóa, bao dung đối với những người xung quanh là sự đồng cảm, yêu thương mà Thạch Lam đã gián tiếp gửi gắm qua nhân vật của mình?
Trân trọng, yêu thương và không ngừng tin tưởng, Thạch Lam còn nhìn thấy ở những đứa trẻ kia một khát vọng thường trực mà chúng nhen nhóm trong cuộc sống bế tắc. Sinh thời, Thạch Lam đã từng tâm niệm: “Suy cho cùng, ở đời ai cũng khổ, người khổ một đằng, người khổ một nẻo. Bí quyết là biết tìm niềm vui trong khổ đau”. Hai người tìm niềm vui cho riêng mình trong những lần ngược xuôi, ngược quá khứ, bất tận trong những tháng ngày hạnh phúc ở Hà Nội, nơi họ từng vui chơi, từng uống những ly xanh đỏ lạnh lùng, hay một thời họ ngước nhìn bầu trời đầy sao để tìm dải ngân hà và đàn vịt đi theo ông Thần Nông, đó là lúc họ để lòng mình yên giấc với ước mơ, nhưng có lẽ khát khao trọn vẹn nhất, ước mơ trọn vẹn nhất là hai bạn trẻ. người ta đã đặt vào đó không chỉ hai chị em mà “rất nhiều người trong bóng tối mong chờ một điều gì tươi sáng hơn cho những mảnh đời tội nghiệp của họ”, và có lẽ đoàn tàu chính là nguồn sáng mạnh mẽ nhất.
Nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì con người, vì cuộc đời, nghệ thuật chân chính là nghệ thuật biết lấy chất liệu từ cuộc sống, con người để dệt nên những trang tư tưởng và hình thức sâu sắc, độc đáo. Một lần nữa Thạch Lam đã làm được điều đó qua “Hai đứa trẻ”. Thạch Lam mãi mãi là nhà văn được yêu mến và kính trọng nhất trong làng văn học hiện đại Việt Nam.