Chèo, một hình thức nghệ thuật sân khấu cổ truyền, đặc trưng của văn hóa Việt Nam, không chỉ là biểu diễn mà còn là một loại kịch hát và múa dân gian. Nó thường được trình diễn trên sân khấu và trước kia thường diễn ra ở sân đình, nên còn được biết đến là chèo sân đình. Dưới đây là bài Thuyết minh về hát chèo Thái Bình lớp 9 chọn lọc siêu hay mời các bạn tham khảo.
Mục lục bài viết
1. Thuyết minh về hát chèo Thái Bình lớp 9 chọn lọc siêu hay:
Chèo, một dạng nghệ thuật truyền thống trên sân khấu cổ ở Việt Nam, không chỉ là một biểu diễn múa dân gian mà còn là một hình thức kịch hát và kể chuyện truyền thống. Nó thường được trình diễn tại các sân đình, vì vậy còn được biết đến là chèo sân đình. Loại hình nghệ thuật này có nguồn gốc và phổ biến chủ yếu tại miền Bắc Bộ Việt Nam, với các câu chuyện được lấy từ truyện cổ tích và truyện Nôm.
Chèo không chỉ là một hình thức giải trí mà còn là phương tiện thể hiện triết lý đạo đức, tài năng con người, và sự thông cảm đối với số phận của nhân vật kịch. Nó còn truyền đạt thông điệp châm biếm và đả kích trực tiếp những vấn đề bất công và xấu xa trong xã hội phong kiến. Các nhân vật truyền thống trong chèo thường bao gồm thư sinh nho nhã, nữ chính đức hạnh, nữ lệch lẳng lơ, mụ ác tàn nhẫn, và hề chèo.
Khi nhân vật chèo xuất hiện trên sân khấu, họ phải tự xưng danh trước khi bắt đầu diễn. Sự ước lệ và điệu bộ của chèo được thể hiện thông qua nghệ thuật hóa trang, hát, và múa của các nhân vật.
Về lịch sử, không rõ chèo đã xuất hiện từ bao giờ, nhưng đã có từ lâu rồi nó trở thành một phần quan trọng của đời sống và văn hóa ở miền Bắc Bộ. Nhiều tài liệu ghi chép cho biết chèo xuất hiện ở châu thổ Bắc Bộ và đã phát triển mạnh ở bốn trấn là Đông, Đoài, Nam, và Bắc.
Trong giai đoạn hưng thịnh nhất, trước cách mạng tháng Tám, các phường chèo, gánh chèo, và hội chèo rộ lên ở khắp Thái Bình để đáp ứng nhu cầu giải trí của cộng đồng. Những nghệ sĩ chèo nổi tiếng, như cụ Trùm Thịnh và cụ Lý Mầm, đều xuất thân từ Thái Bình.
2. Thuyết minh về hát chèo Thái Bình lớp 9 chọn lọc ấn tượng:
Chèo là loại hình nghệ thuật sân khấu cổ ở Việt Nam. Đây cũng là loại kịch hát, múa dân gian, kể chuyện, diễn tích bằng hình thức sân khấu và trước kia thường được diễn ở sân đình nên còn được gọi là chèo sân đình. Nó được nảy sinh và phổ biến rộng rãi ở Bắc Bộ. Tích truyện được khai thác từ truyện cổ tích và truyện Nôm. Nó đề cao đạo đức, tài năng của con người, thông cảm với số phận nhân vật kịch, châm biếm, đả kích trực tiếp những điều bất công, xấu xa trong xã hội phong kiến. Nhân vật truyền thống: thư sinh nho nhã, nữ chính đức hạnh, nết na; nữ lệch lẳng lơ, mụ ác tàn nhẫn, độc địa; hề chèo…Nhân vật chèo khi bước ra sân khấu phải tự xưng danh rồi mới bước vào diễn tích. Tính chất ước lệ và cách điệu của chèo thể hiện rất cao qua nghệ thuật hóa trang, hát, múa của các nhân vật.
Không biết chèo có từ bao giờ, chỉ biết từ lâu lắm rồi chèo đã gắn liền với đời sống sinh hoạt và văn hóa của con người Bắc Bộ. Nhiều tài liệu khẳng định rằng, chèo ra đời ở vùng châu thổ Bắc Bộ và định hình ở bốn trấn là Đông (xứ Đông), Đoài (xứ Đoài), Nam (xứ Nam), Bắc (xứ Bắc). Chiêng chèo xứ Nam ngày xưa gồm các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên và Thái Bình ngày nay. Những nghệ sĩ chèo cốt cán hầu hết xuất thân từ Thái Bình với danh tiếng vang xa từ Bắc vào Nam như cụ Trùm Thịnh, cụ Lý Mầm, cụ Cả Tam, cả Ngũ, bác Năm Ngũ,…
Ở thời kì hưng thịnh nhất, tức là trước cách mạng tháng Tám, những phường chèo, gánh chèo, hội chèo nở rộ khắp Thái Bình đông đảo để đáp ứng nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của bà con lối xóm, trong hội làng. Chính những yếu tố ấy khiến cho nghệ thuật chèo nở rộ, sự sáng tạo cả về làn điệu, hình thức diễn xướng không ngừng phát triển. Khi đó, có ba vùng chèo: chèo Hà Xá, chèo Sáo Dền, chèo Khuốc chỉ ở Thái Bình. Nhưng hiện tại, theo sự trôi chảy của thời gian và sự đào thải khắc nghiệt của cuộc sống, ở Thái Bình giờ chỉ chèo làng Khuốc là còn hoạt động, còn chèo Hà Xá và chèo Sáo Dền từ lâu đã không còn.
Nói về chèo của Thái Bình, Ông Bùi Văn Ro, người làng Khuốc, chia sẻ: “Việt Nam có hai nơi hát chèo là Ninh Bình Và Thái Bình. Người giữ được tổ nghề là người Thái Bình cho nên vẫn giữ được 28 làn điệu chèo độc đáo chưa được phổ biến và chỉ người làng chèo Khuốc mới hát được làn điệu đó. Nghề này ở địa phương không phải là nghề kiếm sống mà tổ tiên giao cho mình rồi thì mình phải có trách nhiệm với nghề nghiệp”.
Cái hay, cái khéo của chèo khiến người xem mê mẩn chính là sự kết hợp khéo léo từ những điệu hát, nói, hát bỏ trong sinh hoạt nghệ thuật dân gian vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng: xoan ghẹo, chèo tàu tương, hát giặm,…Phong cách chèo Thái Bình là sự sáng tạo về quy cách của phần đệm. Dàn nhạc của tuồng chèo Thái Bình khác dàn nhạc ở chỗ, có bốn loại nhạc cụ đi cùng để đệm là nhị, trống đế, trống cơm và mõ. Dù là vậy, nhưng mỗi cây trong dàn nhạc khi đệm đều phải tuân thủ những nguyên tắc nghiêm ngặt, chứ không đơn thuần muốn đệm khi nào thì chêm xen vào khi ấy. Chẳng hạn, tiếng mõ – âm thanh độc đáo của điệu chèo Thái Bình, phải đánh đều, giữ nhịp trường canh, ở tốc độ nhanh và rất nhanh, tạo sự căng thẳng và tính kịch cho âm nhạc. Hay như đệm với trống, những chỗ giai điệu hát ngân hoặc ngừng nghỉ mới được phép điểm dìu lên mặt, đánh trống lúc nghệ nhân mở miệng hát là điều cấm kỵ. Cùng một làn điệu như nhau nhưng phong cách chèo Thái Bình hát mộc mạc giản dị hơn, phụ âm hư tự và nguyên âm luôn cân bằng âm lượng. Cùng một tiết tấu nhưng chèo Thái Bình rộn rã, xáo động hơn. Lối hát Thái Bình không đi sâu vào nhịp phách phức tạp, không nhả chữ theo lối khôn ngoan nhà nghề, không làm lẫn phụ âm.
Cho đến tận ngày nay, những nghệ sĩ chèo Thái Bình vẫn miệt mài, say nghề, yêu nghề để gìn giữ một nét bản sắc văn hóa độc đáo của mảnh đất này. Tuy không còn được phổ biến rộng rãi tới mọi tầng lớp như thời xưa, song ngày nay, dưới những nỗ lực và cố gắng không ngừng của cả nghệ sĩ và chính quyền, sân khấu chèo đang ngày càng đến được gần hơn với công chúng. Người ta biết đến chèo nhiều hơn, biết đến loại hình sinh hoạt sân khấu dân gian với những tiết tấu, các hình thức diễn xướng mang đậm chất của người Việt. Để rồi, khi nhắc về Thái Bình, những người con của mảnh đất ấy có thể tự hào vì những làn điệu chèo của làng Khuốc, của sự sáng tạo và của văn hóa dân tộc.
3. Thuyết minh về hát chèo Thái Bình lớp 9 chọn lọc chi tiết nhất:
Chèo, một hình thức nghệ thuật sân khấu cổ truyền, đặc trưng của văn hóa Việt Nam, không chỉ là biểu diễn mà còn là một loại kịch hát và múa dân gian. Nó thường được trình diễn trên sân khấu và trước kia thường diễn ra ở sân đình, nên còn được biết đến là chèo sân đình. Xuất phát và phổ biến chủ yếu ở miền Bắc, chèo khai thác tích truyện từ truyện cổ tích và truyện Nôm, nâng cao đạo đức, tài năng con người, thể hiện sự thông cảm và châm biếm đối với bất công xã hội.
Nhân vật trong chèo thường mang đặc điểm truyền thống như thư sinh nho nhã, nữ chính đức hạnh, nét ngoại hình tốt; hoặc nhân vật phản diện như nữ lệch lẳng lơ, mụ ác tàn nhẫn. Mỗi nhân vật khi bước lên sân khấu đều tự xưng danh trước khi thực hiện diễn xướng. Nét đặc sắc của chèo hiển thị qua nghệ thuật hóa trang, hát và múa của các nhân vật.
Chèo không phải là một nghệ thuật xuất hiện trong một khoảng thời gian cụ thể, mà là một phần không thể thiếu của cuộc sống và văn hóa ở Bắc Bộ từ lâu. Nó có nguồn gốc ở vùng châu thổ Bắc Bộ và được hình thành ở bốn trấn là Đông, Đoài, Nam, Bắc. Chiêng chèo xứ Nam gồm các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên và Thái Bình ngày nay. Nghệ sĩ chèo nổi tiếng thường xuất thân từ Thái Bình, giữ vững danh tiếng từ Bắc vào Nam.
Trước cách mạng tháng Tám, chèo phát triển mạnh mẽ ở Thái Bình, với nhiều phường chèo, gánh chèo, hội chèo mọc lên khắp nơi để đáp ứng nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của cộng đồng. Nhưng hiện nay, chỉ còn chèo làng Khuốc hoạt động, trong khi chèo Hà Xá và chèo Sáo Dền đã mất đi với thời gian và sự đào thải của cuộc sống hiện đại. Ông Bùi Văn Ro, người làng Khuốc, cho biết rằng Thái Bình giữ được 28 làn điệu chèo độc đáo, được duy trì chủ yếu bởi người làng chèo Khuốc.
Sự độc đáo và khéo léo của chèo nằm ở sự kết hợp linh hoạt giữa các điệu hát, nói, và múa, mang đậm đặc văn hóa dân gian châu thổ sông Hồng. Phong cách chèo Thái Bình đặc trưng bởi sự sáng tạo trong quy cách đệm nhạc. Dàn nhạc chèo Thái Bình sử dụng bốn loại nhạc cụ để đệm nhạc, tạo ra âm thanh độc đáo. Mỗi cây nhạc phải tuân thủ nguyên tắc nghiêm ngặt, không chỉ đơn thuần là đệm mà còn tạo ra sự căng thẳng và tính kịch cho âm nhạc.
Ngày nay, mặc dù chèo không còn phổ biến rộng rãi như trước, những nghệ sĩ chèo Thái Bình vẫn miệt mài và say mê nghề, gìn giữ bản sắc văn hóa độc đáo của đất nước. Dưới sự nỗ lực của nghệ sĩ và chính quyền, sân khấu chèo ngày càng gần gũi hơn với công chúng. Chèo ngày nay không chỉ được biết đến nhiều hơn mà còn là biểu tượng của văn hóa dân tộc Việt Nam, là niềm tự hào của những người con Thái Bình.
THAM KHẢO THÊM: