Công lao của Đinh Bộ Lĩnh trong buổi đầu độc lập của đất nước đó chính là tập hợp nhân dân dẹp loạn 12 sứ quân, xóa bỏ tình trạng phân tán cát cứ, thống nhất đất nước, đưa nhân dân trở về quê hương sinh sống và sản xuất.
Mục lục bài viết
1. Đinh Bộ Lĩnh có công gì trong buổi đầu độc lập đất nước?
Đề bài: Đinh Bộ Lĩnh đã có công gì trong buổi đầu độc lập của đất nước – Bài 3 trang 27 SGK Lịch sử 4
Bài tham khảo 1
Công lao của Đinh Bộ Lĩnh trong buổi đầu độc lập của đất nước đó chính là tập hợp nhân dân dẹp loạn 12 sứ quân, xóa bỏ tình trạng phân tán cát cứ, thống nhất đất nước, đưa nhân dân trở về quê hương sinh sống và sản xuất.
Bài tham khảo 2
Lớn lên gặp buổi loạn lạc, Đinh Bộ Lĩnh xây dựng lực lượng ở vùng Hoa Lư, liên kết với một số sứ quân rồi đem quân đi đánh các sứ quân khác. Được nhân dân ủng hộ nên ông đánh đâu thắng đó. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh thống nhất được giang sơn lên ngôi Hoàng đế (Đinh Tiên Hoàng), đóng đô ở Hoa Lư (huyện Hoa Lư. Ninh Bình), đặt tên nước là Đại Cồ Việt (nước Việt lớn), niên hiệu là Thái Bình.
Đất nước thái bình đúng như mong muốn của nhân dân. Dân lưu tán trở về quê cũ. Đồng ruộng trở lại xanh tươi, người người xuôi ngược buôn bán.
Bài tham khảo 3:
Công lao của Đinh Bộ Lĩnh trong buổi đầu độc lập của đất nước đó chính là tập hợp nhân dân dẹp loạn 12 sứ quân, xóa bỏ tình trạng phân tán cát cứ, thống nhất đất nước, đưa nhân dân trở về quê hương sinh sống và sản xuất.
2. Tiểu sử của Đinh Bộ Lĩnh:
Đinh Bộ Lĩnh sinh vào năm Giáp Thân (924), xuất thân từ thôn Kim Lự, làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng (nay là thôn Văn Bồng, xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình). Do cha mất sớm (cha là Đinh Công Trứ, người đã từng đảm nhiều vị trí quan trọng trong triều đình), ông phải sống cùng mẹ tại một hang động gần đền thờ của thần núi.
Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Vua lúc còn nhỏ chơi cùng với lũ trẻ chăn trâu ngoài đồng, lũ trẻ tự biết kiến thức không bằng vua, nên cùng nhau tôn làm trưởng. Phàm khi chơi đùa, tất bắt chúng khoanh tay làm kiệu để khiêng và lấy hoa lau đi hai bên để rước như là nghi vệ thiên tử. Ngày rỗi sang đánh trẻ con thôn khác, đến đâu chúng đều sợ phục, rủ nhau hàng ngày đến kiếm củi thổi cơm để phục dịch. Bà mẹ thấy thế mừng lắm, mổ lợn của nhà cho chúng ăn. Phụ lão các sách bảo nhau rằng đứa trẻ này khí độ như thế, tất sẽ làm nên việc, bọn chúng ta nếu không theo về, ngày sau hối không kịp”.
Vào năm 944, khi Đinh Bộ Lĩnh tuổi 20, vua Ngô Quyền qua đời. Sau một năm, Dương Tam Kha chiếm ngôi và tự xưng là Bình Vương. Ngô Xương Ngập, con trai của Ngô Quyền, đến Nam Sách (Hải Dương) và mở ra cuộc tranh chấp quyền lực giữa gia tộc Ngô và các thế lực bên ngoài. Kết quả, Dương Tam Kha thất bại, Ngô Xương Ngập và em trai Ngô Xương Văn giành lại quyền kiểm soát. Sự đồng thống trị của họ đã làm cho triều đình nhà Ngô rối ren hơn bao giờ hết làm cho các thống lĩnh địa phương nổi dậy. Đinh Bộ Lĩnh đã nhận thức được tình hình này, với vị thế của mình trong triều đình nhà Ngô và uy tín của gia tộc, cùng với tài năng và ý chí, đã nhanh chóng tổ chức lực lượng và trở thành lãnh đạo của phong trào chống lại quân của Đào Úc, trở thành thủ lĩnh châu Đại Hoàng, bắt đầu tại động Hoa Lư, và bắt đầu cuộc hành trình thống nhất đất nước.
Nhận thấy Đinh Bộ Lĩnh đang tích cực xây dựng lực lượng tại căn cứ Hoa Lư, cùng lúc đó triều đình nhà Ngô đang gặp khó khăn nên họ đã quyết định tấn công để đàn áp. Đinh Bộ Lĩnh đã cho con trai của mình, Đinh Liễn, đi làm con tin tại triều đình Cổ Loa để trì hoãn thời điểm gay cấn đó. Nhận thấy ý định của Đinh Bộ Lĩnh, hai vương Xương Văn và Xương Ngập đã lập tức tiến hành tấn công căn cứ Hoa Lư, nhưng họ đã gặp sự phản kháng quyết liệt và cuối cùng đã phải đe dọa treo Đinh Liễn lên cây để gây áp lực. Trong tình hình đó, Đinh Bộ Lĩnh nói quả quyết: “Một người đàn ông lớn tuổi chỉ mong muốn thành danh, liệu có nên hành động như một người phụ nữ thương con không?” và sau đó đã sai hơn mười người cầm cung nỏ để bắn vào Đinh Liễn, khiến hai vương nhà Ngô phải rút lui. May mắn thay, Đinh Liễn đã trốn thoát khỏi cảnh nguy hiểm đó.
Từ đó, quyền lực của Đinh Bộ Lĩnh ngày càng gia tăng với sự hỗ trợ từ nhiều tướng lĩnh tài ba và anh hùng từ vùng Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa hiện nay. Vào năm 954, Ngô Xương Ngập mắc bệnh và qua đời. Hơn 10 năm sau, Ngô Xương Văn dẫn quân đánh chiến với các thế lực đối địch và hy sinh trong trận đánh. Với việc không còn chính quyền trung ương, tình hình quốc gia trở nên hỗn loạn hơn và bị chia rẽ sâu hơn bởi sự nổi lên của 12 sứ quân. Đồng thời, triều đình phương Bắc cũng đã bắt đầu thực hiện kế hoạch khôi phục ách đô hộ. Đối mặt với tình hình này, Đinh Bộ Lĩnh đã đứng lên dẹp loạn.
Trong suốt hai năm, Đinh Bộ Lĩnh đã sử dụng sức mạnh quân sự để kết hợp, thuyết phục, và đánh bại các thế lực xâm lược. Với các tướng như Trần Lãm, Phạm Bạch Hổ, Ngô Nhật Khánh, Ngô Xương Xí, ông đã sử dụng chiến lược liên kết và thuyết phục; đối với cánh quân của Đỗ Cảnh Thạc, Nguyễn Siêu, Kiều Công Hãn, Nguyễn Thủ Tiệp, Kiều Thuận, Lý Khuê, ông đã tiến hành đánh bại. Trong khi đó, Lã Đường và Nguyễn Khoa đã tự đầu hàng mà không cần phải đánh. Kết quả, Đinh Bộ Lĩnh đã thu phục từng sứ quân một, chấm dứt sự phân chia và thống nhất đất nước, được vinh danh với danh hiệu Vạn Thắng Vương. Vào năm Mậu Thìn (968), Đinh Bộ Lĩnh đã lên ngôi vị hoàng đế, tức là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên quốc gia là Đại Cồ Việt và chọn Hoa Lư làm kinh đô.
3. Ba việc làm của Đinh Bộ Lĩnh khẳng định nước Nam độc lập:
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, ngay khi lên ngôi, Đinh Tiên Hoàng đã “đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, dời Kinh ấp về động Hoa Lư, bắt đầu dựng đô mới, đắp thành đào hào, xây cung diện, đặt triều nghi. Bầy tôi dâng tôn là Đại Thắng Minh Hoàng Đế”. Hai năm sau (năm 970), vua đổi niên hiệu là Thái Bình.
Việc đổi xưng là hoàng đế, đổi tên nước thành Đại Cồ Việt và đặt niên hiệu được cho là ba việc làm khẳng định sự độc lập của nước Việt Nam thời bấy giờ mà trước đó không có hoặc hiếm có vị vua nào làm được.
Thứ nhất là về tước hiệu hoàng đế. Trước đây, họ Khúc chỉ xưng làm tiết độ sứ, Ngô Quyền xưng vương. Tới vua Đinh, ông xưng làm hoàng đế với tôn hiệu Đại Thắng Minh Hoàng Đế.
“Chính từ đây, người đứng đầu nước Nam thực sự nhận về mình hai chữ thiên tử (con trời) như một lời khẳng định về độc lập và tự chủ của cả quốc gia”, tác giả Dũng Phan khẳng định trong Sử Việt – 12 khúc tráng ca. Các đời Lê, Lý, Trần, Nguyễn sau đó không xưng vương hay tiết độ sứ nữa mà đều xưng hoàng đế như một dòng chính thống độc lập hẳn với phương Bắc, mở ra thời đại quân chủ phong kiến trong lịch sử Việt Nam, đẩy lùi 1.000 năm Bắc thuộc.
Thứ hai là về tên nước Đại Cồ Việt, cuốn Sử Việt – 12 khúc tráng ca cũng phân tích thời Ngô, các vua xưng vương nhưng chưa có quốc hiệu, vẫn gọi theo tên thời thuộc Đường là Tĩnh Hải quân. Nhưng đến Đinh Tiên Hoàng, ông đã đặt tên nước là Đại Cồ Việt để khẳng định với phương Bắc rằng đây là đất nước của người Việt chứ không phải của người Hán. Đại Cồ Việt nghĩa là nước Việt lớn.
Vào năm 970, Đinh Tiên Hoàng chọn niên hiệu Thái Bình. Trước đó, các vị vua Việt Nam thường lấy niên hiệu theo các hoàng đế Trung Quốc. Trong tác phẩm của mình, tác giả Dũng Phan khẳng định rằng việc tự đặt niên hiệu độc lập là biểu tượng của việc nước Nam trở thành một chính thể phong kiến độc lập với quân đội riêng, không phụ thuộc vào phương Bắc
Thứ ba, cùng với niên hiệu Thái Bình, nhà Đinh còn đúc đồng tiền “Thái Bình hưng bảo”, góp phần khẳng định nền độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam không chỉ ở lĩnh vực chính trị, ngoại giao, văn hóa mà còn cả kinh tế.