Bài thơ "Thu điếu" của Nguyễn Khuyến nằm trong bộ ba bài thơ thu được yêu thích, giúp ông trở thành "nhà thơ của làng cảnh Việt Nam", và để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc. Dưới đây là bài viết về: Nghị luận về lòng yêu nước trong bài thơ Câu cá mùa thu.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý nghị luận về lòng yêu nước trong bài thơ Câu cá mùa thu:
I. Mở bài:
Giới thiệu vấn đề nghị luận: lòng yêu nước trong tác phẩm “Câu cá mùa thu”.
II. Thân bài:
a. Tình yêu nước thể hiện qua sự gắn bó với thiên nhiên và làng quê Việt Nam:
– Tác giả vẽ nên bức tranh mùa thu thanh bình, yên tĩnh, là biểu tượng của vùng quê Bắc Bộ.
– Hình ảnh ao thu “trong veo” cùng với chiếc thuyền câu nhỏ gợi lên sự tĩnh mịch, yên ả của cảnh làng quê.
– Không khí se lạnh, đặc trưng của mùa thu đồng bằng Bắc Bộ được tác giả khắc họa rõ nét với thuyền câu nhỏ bé giữa không gian yên tĩnh, tạo nên sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên.
– Những hình ảnh chi tiết như ao thu, thuyền câu, lá vàng, sóng biếc, tầng mây, ngõ trúc,… được sử dụng để phác họa nên bức tranh mùa thu đặc trưng.
=> Cảnh sắc giản dị và thân thuộc, cùng với những hành động nhẹ nhàng, tinh tế, mở ra bức tranh mùa thu tĩnh lặng, gợi nỗi buồn trầm lắng của thôn quê.
b. Tình yêu nước qua tâm trạng của người câu cá, người suy tư về vận mệnh đất nước:
– Hình ảnh người câu cá “tựa gối ôm cần” với tâm hồn tĩnh lặng, trầm ngâm, đại diện cho tâm trạng của tác giả.
– Qua những câu thơ, ta cảm nhận được sự suy tư sâu sắc của tác giả về trách nhiệm của mình đối với quê hương, nhất là khi đất nước đang trải qua những biến động lớn, khiến ông không thể tìm được niềm vui cá nhân một cách trọn vẹn.
III. Kết bài:
Khẳng định nét đẹp của bài thơ “Câu cá mùa thu” và lòng yêu nước nồng nàn của Nguyễn Khuyến.
2. Nghị luận về lòng yêu nước trong bài thơ Câu cá mùa thu hay:
Nguyễn Khuyến được ca ngợi là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”. Hình ảnh thôn quê đơn sơ, chân chất hiện lên đầy sinh động qua những dòng thơ của ông. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, nổi bật nhất có thể kể đến chùm thơ về mùa thu, đặc biệt là bài “Câu cá mùa thu”. Bài thơ không chỉ phác họa một bức tranh mùa thu tuyệt đẹp nơi làng quê Việt, mà còn ẩn chứa lòng yêu nước sâu sắc, cùng những suy tư về cuộc đời của tác giả.
Bức tranh mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến hiện lên trong trẻo và yên bình. Có lẽ chính nhờ tình yêu tha thiết đối với quê hương mà ông đã viết nên những câu thơ tinh khôi, đầy cảm xúc như vậy.
” Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Bức tranh mùa thu mở ra với hình ảnh ao thu và chiếc thuyền câu – những cảnh tượng bình dị và quen thuộc nơi làng quê. Ao thu tĩnh lặng, nhỏ bé với làn nước “trong veo”, kết hợp cùng người câu cá, khơi gợi sự thanh bình, yên ả. Không khí se lạnh của mùa thu được nhấn mạnh qua từ “lạnh lẽo” và cách gieo vần “eo” độc đáo: trong veo, tẻo teo. Chiếc thuyền câu nhỏ giữa không gian yên ắng tạo nên sự hài hòa giữa cảnh vật và con người.
Nguyễn Khuyến đã vẽ nên bức tranh mùa thu thông qua những chi tiết cụ thể như làn nước, chiếc thuyền, lá vàng, sóng biếc, tầng mây, ngõ trúc… Những con sóng nhẹ lăn tăn trên mặt nước, chiếc lá vàng khẽ rơi trong gió. Tất cả đều nhẹ nhàng, uyển chuyển mà vô cùng quyến rũ. Những hình ảnh giản dị và cách sắp đặt tinh tế khiến bài thơ không chỉ tái hiện cảnh quê mà còn khơi gợi nhiều cảm xúc trong lòng người đọc. Dường như ta cảm nhận được sự nhẹ nhàng của gió, sự yên bình của hồ nước và nét thanh thoát của lá vàng rơi. Cái nhỏ bé của chiếc thuyền “tẻo teo” giữa không gian tĩnh lặng càng làm cho bức tranh mùa thu thêm phần độc đáo. Sự hòa quyện giữa màu sắc, âm thanh nhẹ nhàng của sóng gợn, tiếng lá rơi và tiếng cá đớp nhẹ dưới chân bèo tạo nên một bức tranh đầy đủ cả về cảnh sắc lẫn cảm xúc.
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Tác giả đang say mê, đắm chìm trong vẻ đẹp của mùa thu. Sự nhạy cảm tinh tế của một tâm hồn thi sĩ đã biến mùa thu trở nên gần gũi, sống động qua từng câu chữ. Bức tranh ấy không gây ấn tượng bằng sự hùng vĩ hay mênh mông, mà lại lôi cuốn bằng vẻ đẹp mộc mạc, bình dị của cảnh vật làng quê. Tình yêu nước dường như hòa quyện vào tình yêu thiên nhiên và cảnh sắc quê nhà. Qua những hình ảnh thiên nhiên ấy, Nguyễn Khuyến đã khéo léo thể hiện lòng yêu nước, yêu quê hương sâu đậm.
Dù vậy, bức tranh thu qua ngòi bút của Nguyễn Khuyến không chỉ đẹp mà còn phảng phất nỗi buồn. Có lẽ mùa thu vốn dĩ mang đến cho con người cảm giác trầm tư, hoặc chính tác giả đã gửi gắm vào mùa thu những nỗi niềm riêng? Như có câu nói rằng:
” Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Đoạn cuối bài thơ, hình ảnh người đi câu và công việc câu cá được miêu tả một cách tinh tế:
” Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Người câu cá với dáng vẻ “tựa gối ôm cần” trầm lặng, suy tư dường như chính là hình ảnh của tác giả. Qua đó, Nguyễn Khuyến đã gửi gắm những nỗi niềm thầm kín về trách nhiệm của mình đối với đất nước. Trước những biến động và cảnh không yên ổn của đất nước, ông không thể cảm nhận vui thú cá nhân mà quên đi nỗi lo cho quê hương. Trong một số bài thơ khác, ông cũng đã từng thổ lộ:
” Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già
Xuân về ngày loạn càng lơ láo”
Hoặc mượn tiếng cuốc kêu mà bộc bạch:
” Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ”
Trước cảnh khốn khổ của nhân dân, nỗi đau mất nước luôn ám ảnh tâm trí thi nhân. Sự lo lắng cho vận mệnh dân tộc và ý thức về trách nhiệm với đất nước đã khắc sâu trong trái tim ông. Bài thơ tuy viết về mùa thu nhưng thấm đẫm tình yêu nước và nỗi lo cho quê hương của một người yêu nước thầm lặng.
3. Nghị luận về lòng yêu nước trong bài thơ Câu cá mùa thu hay nhất:
Nguyễn Khuyến được sinh ra và trưởng thành trong một vùng quê yên bình. Phần lớn cuộc đời ông gắn liền với mảnh đất Yên Đổ, nơi hình ảnh này đã khắc sâu vào từng dòng thơ với những đặc trưng rõ ràng. Qua các tác phẩm của ông, chúng ta cảm nhận được tình cảm chân thành dành cho quê hương và đất nước từ một người được gọi là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”.
Toàn bộ bài thơ là một bức tranh thu nhỏ về làng quê Bắc Bộ với những nét đặc sắc và ấn tượng:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
…
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
Bức tranh mùa thu được mở rộng theo nhiều khía cạnh, mỗi khía cạnh lại mang đến những khoảnh khắc tạo nên nhiều ấn tượng sâu sắc. Người câu cá thực chất là người thưởng ngoạn cảnh vật, người suy ngẫm và qua đó ta hiểu thêm về tâm sự của vị “Tam nguyên Yên Đổ” nổi tiếng.
Bức tranh thiên nhiên bắt đầu với hình ảnh của ao thu:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Những dấu hiệu đầu tiên cho thấy một buổi câu là ao thu và thuyền câu. Chúng ta thấy một hình ảnh quen thuộc thường thấy ở vùng chiêm trũng đồng bằng Bắc Bộ: những chiếc ao nhỏ bé, tĩnh lặng đến mức khiến cho “nước trong veo”. Ao thu lạnh, nhỏ và trong suốt cũng có lẽ là lý do khiến chiếc thuyền câu trở nên “bé tẻo teo” phù hợp với cảnh vật. Chiếc thuyền được đặt trong một không gian yên tĩnh, dường như ngay từ đầu đã là ý định của tác giả, chỉ là một phần trong tổng thể mà không làm xáo trộn không khí vốn có của cảnh vật. Bức tranh ngay từ đầu đã hiện lên với những đường nét hài hòa.
Nhìn tổng quát toàn bộ ao thu, bức tranh thu dần chuyển sang cận cảnh với hình ảnh của sóng. Đó là hình ảnh “sóng biếc theo làn hơi gợn tí”, tức là chỉ là những gợn sóng nhỏ, rất nhẹ. Câu thơ miêu tả nhưng đầy sức gợi. Trong tất cả những chuyển động chậm rãi đó, chiếc lá xuất hiện đột ngột nhưng chỉ làm bức tranh thêm một nét chấm phá nhẹ nhàng:
“Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Khi đọc câu thơ, người ta còn nhận ra nhịp chuyển động trước khi tiếp đất. Đó có thể là tiếp mặt nước – và trong không gian ấy, hình ảnh chiếc lá “khẽ đưa vèo” càng thêm phần đẹp đẽ. Từ xa tới gần, bức tranh tiếp tục được mở rộng về chiều cao, ra xa:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Mọi thứ đều toát lên nét buồn bã. Có lẽ là màu xanh ngắt của bầu trời trong “Thu ẩm”, màu xanh đặc trưng của khí thu vùng nhiệt đới, khí thu đồng bằng Bắc Bộ nhưng ở đây nó không trở nên “gắt” như trong câu hỏi “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” mà hòa hợp hơn với tầng mây trôi lơ lửng.
Lại một lần nữa, góc nhìn của nhân vật trữ tình thay đổi khi nhìn xa về những ngõ trúc uốn lượn, vẫn không thấy dấu vết con người. Chỉ có “khách vắng teo” dường như tạo nên sự yên tĩnh tuyệt đối, chỉ có tác giả – người câu cá – đối diện với một không gian mùa thu buồn bã. Không rõ vì lòng người chứa đầy nhiều tâm sự nên mang điều đó, mang cái nhìn ấy vào cảnh vật hay cảnh vật dường như đồng cảm với tâm sự của con người và thay đổi theo đó, giữa con người và cảnh vật có một sự hài hòa cao độ. Người ta thấy bức tranh mùa thu trở nên hoàn toàn yên tĩnh đến mức:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Bài thơ có tựa đề “Thu điếu” (Câu cá mùa thu) và đến cuối bài thơ, hình ảnh người đi câu và công việc đi câu mới được nhắc tới. Tuy nhiên, ngay cả lúc này, vẫn là hình ảnh một người đi câu trầm lặng ngồi “tựa gối ôm cần”.
Mải mê suy nghĩ đến mức chỉ một tiếng “cá đâu đớp động dưới chân bèo” cũng đủ làm người trong cuộc nghe thấy và tỉnh giấc. Chỉ là tiếng cá đớp động, tức những âm thanh rất nhỏ nhưng cũng đủ khiến người đi câu giật mình trở về thực tại.
Qua ngòi bút tinh tế của Nguyễn Khuyến, bức tranh thiên nhiên mùa thu hiện lên thật buồn nhưng cũng thật đẹp. Bài thơ cho ta cảm nhận về một tâm hồn thơ nhạy cảm yêu thiên nhiên và đất nước. Sự gắn bó và tình yêu sâu đậm đặc biệt với vùng đồng bằng chiêm trũng, với những ao chuôm nhỏ, với thuyền câu, lá vàng, ngõ trúc uốn lượn… đã giúp nhà thơ có những cảm nhận tinh tế về thiên nhiên cũng như dành cho nó tình cảm ưu ái đặc biệt. Bài thơ còn là sự gửi gắm những tâm sự thầm kín của một người luôn nặng trĩu suy tư về quê hương, đất nước, về trách nhiệm của bản thân đối với quê hương đất nước mình. Là một trí thức yêu nước, ông không thể ngẩng mặt trước nỗi nhục, nỗi đau vong quốc mà ở đó:
“Vua chèo còn chẳng ra gì
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề”
Chính nỗi “non nước” không nguôi này làm ông tủi hổ, như lỗi tại bản thân nên mượn thơ mà còn thẹn thùng:
“Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già
Xuân về ngày loạn càng lơ láo”
Mượn tiếng cuốc kêu mà thổ lộ tâm sự:
“Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ”
Nằm trong bộ ba bài thơ thu nổi tiếng, “Thu điếu” là một trong những bài thơ không chỉ góp phần đưa Nguyễn Khuyến trở thành “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” mà còn làm nên một nhân cách vĩ đại của ông mãi trong lòng người.