Dân số là tập hợp của những con người đang sống ở một vùng địa lý hoặc một không gian nhất định, là nguồn lao động quý báu cho sự phát triển kinh tế – xã hội, thường được đo bằng cuộc điều tra dân số và biểu hiện bằng tháp dân số. Mời các bạn cùng tìm hiểu bài viết Các kiểu tháp dân số cơ bản? Mô tả các kiểu tháp dân số!
Mục lục bài viết
1. Tháp dân số là gì?
Tháp dân số (tháp tuổi – giới tính) là một cách biểu thị cơ cấu tuổi – giới tính của dân số theo hình học. Tháp dân số được chia làm 2 phần bởi một trục thẳng đứng ở trung tâm được gọi là trục tuổi dùng để biểu thị độ tuổi hoặc nhóm tuổi của dân số. Trên trục này, độ tuổi dân số được phân ra theo mỗi tuổi, hoặc từng nhóm tuổi với khoảng cách khác nhau, thông thường là 5 hoặc 10 tuổi. Các thanh chữ nhật nằm ngang hai bên trục tuổi biểu thị cơ cấu dân số theo tuổi của nam và nữ, bên trái là nam, bên phải là nữ.
Chiều cao của mỗi thanh nằm ngang biểu diễn tỷ lệ nam, nữ của mỗi độ tuổi hay nhóm tuổi hoặc số lượng nam, nữ trong mỗi độ tuổi, nhóm tuổi trong tổng số dân. Hình dạng của tháp dân số không những cung cấp các thông tin tổng quát về cơ cấu tuổi và giới tính của dân số tại thời điểm xác lập, mà còn có thể giúp đánh giá đặc trưng cơ bản của tái sản xuất dân số trong quá khứ và những nhân tố ảnh hưởng đến thay đổi quy mô và cơ cấu tuổi, giới tính của dân số trong khoảng thời gian trước đó, nhất là những nhân tố như chiến tranh, di cư ồ ạt, nạn đói, dịch bệnh. .. Đồng thời, tháp dân số cũng cho ta dự đoán được sự gia tăng của dân số trong tương lai.
2. Tháp dân số cho biết điều gì?
Dựa vào tháp dân số, chúng ta có thể thu được những thông tin quan trọng và đáng tin cậy. Cụ thể, thông qua việc phân tích chiều dài của các thanh nằm ngang trong tháp, ta có thể xác định số lượng nam và nữ ở mỗi độ tuổi hoặc nhóm tuổi cụ thể, hoặc tỷ lệ giữa nam và nữ trong từng độ tuổi hay nhóm tuổi so với tổng dân số. Hình dạng của tháp dân số cung cấp cho chúng ta cái nhìn tổng quan về sự phân bổ theo độ tuổi và giới tính của dân số tại một thời điểm xác định.
Ngoài ra, thông qua việc phân tích này, chúng ta cũng có thể hiểu được những đặc điểm quan trọng về sự tái sản xuất của dân số trong quá khứ, bao gồm các yếu tố tác động đã làm thay đổi quy mô và cơ cấu theo tuổi và giới tính của dân số trong quá khứ. Các yếu tố này có thể bao gồm các cuộc chiến tranh, di dân hàng loạt, nạn đói hay bệnh dịch. Hơn nữa, thông qua việc phân tích tháp dân số, chúng ta còn có thể đánh giá và dự đoán được xu hướng phát triển của dân số trong tương lai.
3. Các loại tháp dân số:
Ba hình thức cơ bản về mô hình dân số có thể được phân loại thành ba loại khác nhau: mở rộng, thu hẹp và ổn định.
Hình tháp dân số mở rộng có dạng nón, với đáy của tháp mở rộng ra, và khi càng cao lên, nó sẽ thu hẹp lại nhanh chóng. Đây là biểu trưng cho các quốc gia đang trong giai đoạn phát triển, như Maroc, với tốc độ sinh con cao và tuổi thọ trung bình thấp. Đặc điểm này cũng phản ánh sự gia tăng nhanh chóng của dân số trẻ.
Hình tháp dân số thu hẹp là biểu trưng cho Canada. Tháp này có đáy thu hẹp hơn so với kiểu mở rộng và phần giữa của tháp phình to ra. Phần trên của tháp mở rộng hơn để biểu hiện sự giảm tốc độ sinh con và tuổi thọ trung bình gia tăng. Đặc biệt, tỷ lệ người lao động trong dân số cao. Đây là biểu hiện của sự trưởng thành dân số khi tốc độ tăng trưởng kém. Cuối cùng, hình tháp dân số ổn định có các phần tương đương nhau, thể hiện sự phân bố ngang nhau của các nhóm tuổi. Đây là biểu trưng cho các quốc gia phát triển như Thụy Điển, với dân số già tăng chậm hoặc không tăng. Tỷ lệ sinh con thấp và tuổi thọ trung bình cao cũng là đặc điểm của hình tháp này.
4. Quy mô dân số Việt Nam hiện nay:
Tổng số dân của Việt Nam vào thời điểm 0 giờ ngày 01/4/2021 là 98,3 triệu người. Trong đó, dân số nam là 48,7 triệu người, chiếm 49,6%; dân số nữ là 49,5 triệu người, chiếm 50,4%. Việt Nam là quốc gia đông dân thứ ba trong khu vực Đông Nam Á (sau Indonesia và Philippines) và thứ 15 thế giới. Tỷ lệ tăng dân số năm 2021 so với năm 2020 là 1,11%, tương đương khoảng 1 triệu người, duy trì mức tăng bình quân trong nhiều năm qua.
4.1. Mật độ dân số:
Mật độ dân số của Việt Nam là 297 người/km2, tăng 4 người/km2 so với năm 2020. Với kết quả này, Việt Nam là quốc gia có mật độ dân số cao thứ ba trong khu vực Đông Nam Á, sau Phi-li-pin ( 365,3 người/km2) và Singapore (7.908 người/km2).
Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ là hai vùng có mật độ dân số cao nhất cả nước, lần lượt là 1.084 người/km2 và 795 người/km2. Đây là các vùng bao gồm 2 địa phương đông dân nhất cả nước là Hà Nội thuộc vùng đồng bằng sông Hồng với mật độ dân số 2.483 người/km2 và TP.HCM thuộc vùng Đông Nam Bộ với mật độ dân số 2.483 người/km2. km2.mật độ dân số 4.497 người. /km2.
Trung du và miền núi phía Bắc và Tây Nguyên là hai vùng có mật độ dân số thấp nhất, lần lượt là 135 người/km2 và 110 người/km2. Tỉnh Lai Châu có mật độ dân số thấp nhất cả nước với 53 người/km2, tiếp đến là Kon Tum với mật độ dân số 59 người/km2.
4.2. Quy mô số hộ:
Tính đến 0hh ngày 01/4/2021, cả nước có gần 27,2 triệu hộ, trong đó khu vực thành thị có 10,5 triệu hộ (chiếm 38,7%) và khu vực thành thị có 16,7 triệu hộ (chiếm 61,3%). Quy mô hộ gia đình trung bình trong cả nước là 3,5 người/hộ. Ở khu vực nông thôn, quy mô hộ gia đình trung bình là 3,6 người/hộ, cao hơn 0,2 người/hộ so với khu vực thành thị. Trung du và miền núi phía Bắc có số nhân khẩu trung bình/hộ cao nhất cả nước (3,9 người/hộ); Đông Nam Bộ có số nhân khẩu trung bình/hộ thấp nhất cả nước (3,3 người/hộ). Quy mô hộ gia đình trung bình phổ biến trên cả nước là từ 2 đến 4 người/hộ, chiếm 65,0% tổng số hộ gia đình. Tỷ lệ hộ độc thân (hộ độc thân) tăng so với năm 2020 (2020: 10,4%, 2021: 11,3%), trong đĩ tỷ lệ hộ độc thân ở thành thị cao hơn ở thôn quê. (13,4% so với 9,9%). Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng là hai vùng có tỷ lệ hộ độc thân cao nhất, tương ứng là 14,2% và 12,5%. Tỷ lệ hộ có từ 5 người trở lên đang có chiều hướng giảm dần (2019: 25,1%, 2020: 24,3%, 2021: 23,7%). Trong đó, Trung du Bắc Bộ và Miền núi Trung bộ và Tây Nguyên là hai vùng có tỷ lệ hộ có từ 5 người trở lên cao nhất cả nước, tương ứng là 31,3% và 26,0%. Đây là hai địa bàn có đông đồng bào dân tộc, sống trong những gia đình đa thế hệ, mức sinh cao nên có tỷ lệ hộ đông con.
4.3. Tháp dân số Việt Nam:
Từ tháp tuổi ở trên, có thể thấy ở đáy tháp tuổi năm 2021 không có sự thay đổi so với năm 2020, do đó mức sinh vẫn duy trì mức ổn định. Phần giữa của kim tự tháp năm 2020, khung tuổi 20-24 thu hẹp đáng kể so với năm 2020, có thể thấy tỷ trọng dân số trẻ ở Việt Nam đang giảm, phần lớn vì mức sinh thấp của giai đoạn trước đại dịch, từ mức 15-20 tuổi, cùng với ảnh hưởng của tỷ lệ tử vong. Nhóm tuổi 25-29 + được mở rộng và không biến động lớn so với tháp tuổi 2020 cho nên Việt Nam tiếp tục có nguồn lực lao động dồi dào trong độ tuổi lao động, đây là lợi thế to lớn đối với phát triển kinh tế.
Theo kết quả Tổng điều tra phát triển dân số năm 2021, tỷ trọng dân số từ 15 tuổi đến 64 tuổi chiếm 67,6% (giảm 0,4 điểm phần trăm so với năm 2020), tỷ trọng dân số từ 15 tuổi đến 65 tuổi và người cao tuổi chiếm tỷ lệ. tương ứng là 24,1% và 8,3%. Như vậy, Việt Nam đang trong giai đoạn “cơ cấu dân số vàng”, bình quân một người phụ thuộc phải có 2 người trong độ tuổi lao động. Tỷ số phụ thuộc là tiêu chí xác định gánh nặng của dân số trong độ tuổi lao động. Chỉ tiêu này phản ánh ảnh hưởng của tỷ suất sinh và tỷ suất tử vong đối với cơ cấu tuổi và lực lượng lao động. Tỷ lệ phụ thuộc trẻ em thể hiện tỷ lệ phần trăm dân số dưới 15 tuổi và dân số 65 tuổi trở lên trên 100 người trong độ tuổi 15-64. Trong đĩ, tỷ số phụ thuộc trẻ em thể hiện tỷ lệ dân số dưới 15 tuổi trên 100 dân của nhóm 15-64 tuổi và tỷ số phụ thuộc người già thể hiện tỷ lệ dân số từ 65 tuổi trở lên trên 100 dân. -64 nhóm tuổi. Tỷ số phụ thuộc chung năm 2021 là 47,9%, tăng 0,3 điểm phần trăm so với năm 2020 (47,6%), nghĩa là 100 người có độ tuổi lao động từ 15 đến 64 tuổi sẽ hỗ trợ khoảng 50 người ngoài độ tuổi lao động (gồm cả trẻ em dưới 15 tuổi). ). tuổi và người cao tuổi trên 65 tuổi), tương đương 2 người trong độ tuổi lao động sẽ nuôi 1 người ngoài độ tuổi lao động. Chỉ số già hoá được thể hiện bởi tỷ lệ dân số từ 60 tuổi trở lên trên 100 người dưới 15 tuổi. Do cơ cấu dân số theo độ tuổi đang biến đổi, tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi đang giảm, trong khi tỷ lệ người già lại tăng. Điều này khiến chỉ số già hoá có chiều hướng tăng nhanh.
Kết quả Tổng điều tra phát triển dân số năm 2021 cho thấy, năm 2021 chỉ số già hoá là 53,1%, tức cứ 100 trẻ em dưới 15 tuổi sẽ có khoảng 53 người từ 60 tuổi trở lên. Việt Nam đang trong thời kỳ dân số vàng với tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động từ 15 đến 64 tuổi tương đối cao (chiếm 67,6% tổng dân số cả nước). Tuy nhiên, xu hướng già hoá dân số đang diễn ra nhanh chóng. Tỷ trọng dân số trẻ 0-14 tuổi liên tục giảm từ 24,5% năm 2009 xuống 24,3% năm 2019 và 24,1% năm 2021; trong khi nhóm dân số từ 65 tuổi trở lên tiếp tục tăng từ 6,4% năm 2009 lên 7,7% năm 2019 và 8,3% năm 2021.