Thơ lục bát là một trong những thể thơ đã tồn tại từ lâu đời và rất phổ biến tại Việt Nam. Đề tài Thử tập làm một bài thơ lục bát về đề tài mà em yêu thích là một đề tài học phổ biến trong chương trình Ngữ văn. Bài viết dưới đây sẽ giúp các bạn nắm bắt rõ thể thơ và cách làm thơ lục bát. Cùng tìm hiểu nhé.
Mục lục bài viết
- 1 1. Thơ lục bát là gì?
- 2 2. Cách làm một bài thơ lục bát:
- 3 3. Thử tập làm một bài thơ lục bát về đề tài mà em yêu thích:
- 3.1 3.1. Thử tập làm một bài thơ lục bát về đề tài mà em yêu thích – mẫu 1:
- 3.2 3.2. Thử tập làm một bài thơ lục bát về đề tài mà em yêu thích – mẫu 2:
- 3.3 3.3. Thử tập làm một bài thơ lục bát về đề tài mà em yêu thích – mẫu 3:
- 3.4 3.4. Thử tập làm một bài thơ lục bát về đề tài mà em yêu thích – mẫu 4:
- 3.5 3.5. Thử tập làm một bài thơ lục bát về đề tài mà em yêu thích – mẫu 5:
- 4 4. Nguồn gốc hình thành thể thơ lục bát:
- 5 5. Quá trình phát triển của thể thơ lục bát:
- 6 6. Đặc điểm thơ lục bát:
1. Thơ lục bát là gì?
Lục bát là một thể thơ độc đáo của văn học Việt Nam, rất thường gặp trong văn chương và trong đời sống. Như tên gọi, đôi câu thơ cơ bản gồm 1 câu 6 âm và 1 câu 8 âm, gieo vần với nhau. Một bài thơ lục bát gồm nhiều câu được cấu tạo bằng thể thơ không giới hạn. Đây là thể thơ được sử dụng chủ yếu trong ca dao, dân ca.
Có thể nói thơ lục bát là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Và càng tự hào hơn khi bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam đã được nhân loại biết đến, khẳng định và tôn vinh. Để đạt được những kỳ tích vang dội đó, chúng tôi đã luôn nỗ lực cống hiến hết mình, không ngừng tìm tòi, chọn lọc, chắt lọc, kế thừa, phát huy, sáng tạo, đổi mới để tạo nên sáu tám nét tinh tế, khác biệt. . “Nếu người Anh, người Ý tự hào có thơ Sonne, người Nhật có thơ Haiku, người Trung Quốc có thơ Đường…, thì chúng ta có quyền tự hào vì có sáu bài thơ lục bát. , tồn tại và phát triển qua lời ăn, tiếng nói của ông cha ta truyền lại cho con cháu, tục ngữ, ca dao, dân ca khắp cả nước có câu: Ở đâu có lục bát, ở đó có văn hiến Việt Nam”.
2. Cách làm một bài thơ lục bát:
2.1. Bắt đầu viết:
a. Tập gieo vầ
Hãy gieo vần bằng cách chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống trong đoạn văn sau:
Tiếng chim vách núi nhỏ dần
Rì rầm tiếng suối khi gần khi xa
Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng
b. Xác định chủ đề của tài liệu
Một số chủ đề như: thiên nhiên, quê hương, gia đình, bạn bè, sân trường…
2.2. Luyện viết:
– Trực quan cụ thể có thể đặt chủ đề cho tài liệu mà bạn dự định.
– Bắt đầu bằng việc thử viết ngay dòng đầu tiên hoặc cặp lục bát có hình ảnh gợi ấn tượng rõ nét nhất về tình cảm, suy nghĩ của em. Chú ý việc sử dụng số tiếng, lựa chọn vần, ngắt nhịp đúng quy định của thể thơ lục bát.
– Viết các cặp lục giác tiếp theo. Đọc để cảm nhận rõ hơn vần, nhịp, từ ngữ, hình ảnh trong các dòng thơ.
– Cố gắng phát triển ý, cảm, hình ảnh thơ theo nhiều cách khác nhau. Luyện cách sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ; Sử dụng các từ để mô tả âm thanh, màu sắc, v.v.
2.3. Chỉnh sửa:
– Sau khi viết xong bài thơ lục bát, đọc diễn tiến bài thơ của mình. Khi thuộc lời ca, chú ý xem bài thơ có làm đúng thể lục bát hay không (số tiếng mỗi dòng, vần, phối thanh điệu).
-Sửa chữa các lỗi miêu tả cho đúng (nếu có) và nhận xét có những từ nào cần thay thế để bài thơ hay hơn.
3. Thử tập làm một bài thơ lục bát về đề tài mà em yêu thích:
3.1. Thử tập làm một bài thơ lục bát về đề tài mà em yêu thích – mẫu 1:
Kìa cánh đồng lúa xanh xanh
Cuộn trong mây trắng, bao quanh mây vàng
Kìa tiếng diều sáng vang vang
Những con cò nhỏ ngỡ ngàng nhìn lên
Hàng thông vẫn đứng lặng yên
Chợt ngân bản nhạc rộn miền hoang sơ
3.2. Thử tập làm một bài thơ lục bát về đề tài mà em yêu thích – mẫu 2:
Mẹ hiền đẹp tựa vì sao
Ru con khôn lớn biết bao tháng ngày
Mai này con lớn khôn thay
Vẫn luôn nhớ những đắng cay ngọt bùi.
3.3. Thử tập làm một bài thơ lục bát về đề tài mà em yêu thích – mẫu 3:
Vườn kia cây quý đủ loài
Cam, chanh, bưởi, quýt, mận, xoài, ổi, na.
Hương thơm bay khắp gần xa
Quả thơm mát ngọt phần bà của em.
3.4. Thử tập làm một bài thơ lục bát về đề tài mà em yêu thích – mẫu 4:
Thiếu nhi là tuổi học hành
Chúng em phấn đấu tiến nhanh mỗi ngày.
Chăm chỉ rèn luyện hăng sa
Cùng nhau tiến bước mai này bay cao.
3.5. Thử tập làm một bài thơ lục bát về đề tài mà em yêu thích – mẫu 5:
“Năm nay bà đã tám mươi
Mong bà mạnh khỏe vui tươi hàng ngày
Biết bao ý đẹp lời hay
Cháu dành tặng để làm say lòng bà
Nhưng sao chẳng thốt được ra….
Cháu lặng nhìn bà xúc động rưng rưng”.
4. Nguồn gốc hình thành thể thơ lục bát:
Cùng với quá trình hình thành và phát triển thể loại ở Việt Nam, có nhiều thể thơ khác nhau, mỗi thể loại có nguồn gốc nhất định, trong đó lục bát là thể thơ dân gian bắt nguồn từ ca dao. Đây là “một thể thơ lục bát mà các hình thức được tập trung thể hiện trong một khổ thơ gồm hai dòng với số tiếng cố định: dòng lục bát (câu lục bát) và dòng bát cú (câu lục bát)”. Lục là thể thơ dễ nhận, dễ đọc, dễ hiểu và dễ nhớ nhất vì nó mang âm hưởng dân gian, phù hợp với người Việt Nam. Cứ thế diễn đạt cho đến hết bài” vần linh hoạt, uyển chuyển, nhịp điệu du dương. Khác với thể thơ hai, ba, bốn, bảy chữ, lục bát không mang trong mình sự trang nhã, trang nghiêm, trang nghiêm, không Ồn ào, không khách sáo mà đầy những cảm xúc mênh mông, dạt dào, tha thiết, chính vì thế Truyện Kiều của Nguyễn Du nổi tiếng, được viết bằng thể thơ lục bát và dù được viết cách đây mấy thế kỷ vẫn còn hiện diện ở đây.
5. Quá trình phát triển của thể thơ lục bát:
Ngay từ đầu, thể loại như song thất lục bát còn chưa hoàn chỉnh về thể thức (4+4/6 hoặc 4/4+4), kết cấu lỏng lẻo, lộn xộn, âm luật chưa rõ ràng, rải rác ở cả quãng 4 và quãng 6. âm thanh. Theo thời gian, cấu trúc câu thơ được hoàn thiện dần, số câu gieo vần ở vần thứ tư giảm dần. Đỉnh cao là Truyện Kiều, thơ lục bát Việt Nam bước vào thời kỳ ổn định về cấu trúc thể loại, về cách gieo vần, về sự hài hòa thống nhất, hài hòa và ngày càng phát triển thịnh vượng. Trong câu thơ đã hoàn toàn không còn sự tồn tại của từ láy, từ mộng hoàn, trong dòng lục bát có thể đối, đối khiến cho câu thơ trở nên cô đọng, có nhịp thơ.
6. Đặc điểm thơ lục bát:
– Niêm, vần, luật
Vần là những từ có cách phát âm giống nhau hoặc gần giống nhau được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Đây là quy tắc nối câu trong một bài thơ. Trong sáng tác thơ, thường có hai cách gieo vần: vần giữa câu (vần yêu hay vần chân), vần cuối câu (vần cước hay vần chân). Lục bát là một thể thơ đặc biệt của Việt Nam, có thể kết hợp hài hoà cả hai kiểu gieo vần trên. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy ở thơ lục bát đều là vần xuôi hoặc là sự kết hợp giữa vần chân và vần chân. Tiếng Việt là một ngôn ngữ giàu, siêu ngữ nghĩa, đa thanh điệu với sáu thanh điệu cơ bản: âm sắc, hỏi, nặng, bằng, không và được chia thành hai nhóm: bằng (bằng, không); thanh trắc (dạng, hỏi, ngã, nặng). Thông thường, các tiếng lục luôn gieo vần bằng thanh bằng và được sắp xếp theo quy luật sau:
– Nhịp điệu
Ở mỗi thể thơ đều có nhịp thơ chung, đặc biệt khuyến khích thể hiện ngữ nghĩa, sắc thái tình cảm của tác giả. Nhịp điệu biến đổi linh hoạt trong từng dòng, câu, bài thơ với những quãng dài ngắn khác nhau, cân xứng hoặc không cân xứng. Về cơ bản một cặp thơ lục bát gồm 14 chữ cái. Trong 14 chữ đó, tuỳ theo ngữ cảnh mà câu thơ được ngắt nhịp khác nhau của từ gợi nhớ. Có một số cách ngắt nhịp ta thường thấy trong thể thơ lục bát:
Thứ nhất, ngắt nhịp theo mẫu bày, đặc biệt là ngắt nhịp đôi.
Ví dụ:
Rủ nhau/ xuống biển/ mò cua
Đem về/ nấu quả/ mơ chua/ trên rừng
Ai ơi/ chua ngọt/ đã từng
Gừng cay/ muối mặn/ xin đừng /quên nhau.
Thứ hai, lối ngắt ba khá quen thuộc trong thơ Lục bát. Trong câu thơ thường có nhiều chỗ ngắt nhịp, giữa hai lần khám phá thường có sự ngắt hơi.
Ví dụ:
Cây đa cũ,/ bến đò xưa
Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ
Có thể nói, ngắt nhịp làm cho câu thơ nhịp nhàng, cân đối nhưng nếu sử dụng thường xuyên trong cấu trúc của bài thơ thì dễ đưa câu thơ hay bài thơ đến chỗ đơn điệu. Vì vậy, để câu thơ trở nên linh hoạt, tùy theo nhịp điệu cụ thể và ngôn ngữ tiết tấu, nhịp điệu có thể được ngắt một mình hoặc cả ngày.
– Đối
Đối không phải là đặc điểm cần thiết trong thơ Lục bát, bởi lẽ “Lục bát là thể gieo vần mà không đối”, nhưng đối là hình thức đối lại được sử dụng khá phổ biến trong thơ Lục bát, nhất là trong thơ Lục bát. . Truyện Kiều của Nguyễn Du mang những hiệu quả nghệ thuật đặc sắc, riêng biệt của Nguyễn Du. Hình thức này xuất hiện cả trong văn học dân gian và văn học viết với mức độ đậm nhạt khác nhau. Có các kiểu lập luận như: đối âm, đối giọng, đối giọng, đối giọng, đối âm, đối âm, đối tiểu đối.
Ví dụ:
– Trên đồng cạn/dưới đồng sâu
– làn thu thủy/nét xuân sơn
– Ngựa xe như nước/áo quần như nen
– Người quốc sắc/kẻ thiên tài
– Các biến thể của thơ lục bát
Thơ lục bát thường có quy định rõ ràng về niêm luật và kết cấu ràng buộc. Tuy nhiên, trong thực tế nó luôn biến đổi rất linh hoạt, sinh động và uyển chuyển.
– Biến tấu về cách gieo vần
Lục thường phiên âm chân và vần, lục bát sáu dòng vần với chữ sáu dòng, lục bát tám dòng vần với chữ sáu dòng và thường vần theo thanh, cứ thế cho đến hết bài. bài học. Cũng có một vài trường hợp gieo vần Thanh trắc:
Tò vò mà nuôi con nhện
Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi
– Biến thể trong cấu trúc câu thơ
Cấu trúc chung của thể thơ lục bát là (6/8), câu lục bát và câu bát cú. Ngoài ra còn một số thể thơ lục bát khác, hiện tượng này thường thấy trong ca dao và trong thơ lục bát đương đại
Ví dụ:
Mèo khen mèo dài đuôi
Chuột khen chuột nhỏ dễ chui dễ trèo