Hình ảnh người bà gợi cho ta tình mẫu tử thiêng liêng và nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Qua đó ta càng phải trân trọng tình cảm gia đình hơn nữa. Hãy cùng chúng tôi tham khảo những bài mẫu phân tích tình bà cháu qua bài thơ Bếp lửa để rõ hơn nhé
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa ngắn gọn nhất:
1.1. Mở bài:
Vài nét về tác giả Bằng Việt và bài thơ Bếp lửa
Vài nét về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm: đoạn thơ gợi lại những kỉ niệm sâu sắc của tuổi thơ, tình mẫu tử thiêng liêng, cảm động.
Hình ảnh người bà nhân hậu, đằm thắm, hi sinh hiện lên thật giản dị, gần gũi và ấm áp.
1.2. Thân bài:
– Hình ảnh bếp lửa nơi đất lạ gợi lên nỗi nhớ da diết, nhớ quê hương của bà.
– Dòng hồi tưởng về bà, về tuổi thơ được khơi nguồn từ hình ảnh thân thương – bếp lửa
+ Bếp lửa “chờ sương sớm” và “ngọt ngào ấp ủ” ùa vào tâm trí đứa trẻ hình ảnh người bà nhân hậu với tấm lòng nhỏ bé của người nhóm lửa.
– Một ngọn lửa thật tự nhiên khi xa quê đã đánh thức một dòng cảm xúc, nỗi nhớ luôn chờ đợi trong lòng người cháu về bà: Cháu yêu bà lặng lẽ, âm thầm.
– Bài thơ gợi cho em những kỉ niệm tuổi thơ ấm áp, êm đềm khi ở bên ngoại.
Tuổi thơ của người cháu là những chuỗi ngày thiếu thốn, khổ cực, “đói, đói, rét” dường như luôn ám ảnh và xót xa cho người cháu mỗi khi nhớ lại.
Nhưng với em, cuộc sống của anh luôn tràn ngập yêu thương và ấm áp
– Bên bếp lửa, tiếng tu hú gợi lên hình ảnh hai ông bà gắn bó, sẻ chia đầm ấm suốt 8 năm trời.
– Bà luôn ân cần đảm nhận nhiều vai khi chăm sóc cháu: biện pháp liệt kê “bà bảo, bà chăm, bà dạy” sâu sắc, cảm động thể hiện sự ân cần, yêu thương, quan tâm cho cháu trai của cô ấy
+ Cô ấy trở thành chỗ dựa vững chắc cho tôi, lấp đầy những khiếm khuyết về thể chất và tinh thần của tôi
– Trong hoàn cảnh chiến tranh phá hoại, bà vẫn vững vàng, bình tĩnh tạo niềm tin cho con cháu
+ Hình ảnh ngọn lửa, ngọn lửa ấm áp tình nghĩa, sự hy sinh của chị đối lập với ngọn lửa dữ dội thiêu sống quân thù (năm giặc đốt làng, thiêu rụi)
→ Cảm xúc đan xen với lời kể, hình ảnh thơ trào phúng nổi lên rõ nét, để lại ấn tượng sâu sắc về người bà Những suy ngẫm về cuộc đời của bà và hình ảnh bếp lửa
– Từ nỗi nhớ bà, người cháu suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời của bà
Hình ảnh của cô luôn gắn liền với hình ảnh lò sưởi ấm áp quen thuộc
Trong trái tim cô luôn có một “ngọn lửa” được “ấp”, đây là ngọn lửa của niềm tin, ý chí, nghị lực và khát vọng sống.
Điệp ngữ “ngọn lửa” nhấn mạnh tình yêu thương, nhân hậu của bà đối với đứa cháu
Ngọn lửa ấy thắp lên niềm tin, tình yêu và ý chí sống tự tin vào ngày mai cho các cháu
– Hình ảnh người bà thức khuya làm việc, là người nhóm lửa và giữ lửa truyền lại cho thế hệ sau.
Dù cuộc đời trải qua những “ngày mưa gió” nhưng bà vẫn luôn lạc quan, tin tưởng và dành những điều tốt đẹp cho con cháu.
Động từ “nhóm” được lặp lại nhằm khẳng định mẹ chính là người khơi dậy những giá trị sống tốt đẹp trong cuộc đời mỗi con người. Bà lan tỏa hơi ấm tình người, khơi dậy trong lòng tôi tình yêu thương ruột thịt, sự đồng cảm sẻ chia
Từ đó, nhà thơ phát hiện ra một điều kì diệu giữa cuộc sống bình dị “Ôi lạ lùng và thiêng liêng- Bếp lửa”
– Khổ thơ cuối là tâm sự của người cháu khi lớn lên xa quê hương
+ Dù xa quê, xa bà nhưng người cháu luôn nhớ và hướng về bà với tình yêu thương và lòng biết ơn vô hạn.
1.3. Kết bài:
Tác giả đã xây dựng thành công hình ảnh bếp lửa để làm sáng lên những đức tính đáng quý của cô bé. Qua đó thể hiện tình yêu thương, kính trọng của người cháu dù xa quê nhưng luôn nhớ và biết ơn sự hi sinh, chăm sóc, dạy dỗ của bà.
2. Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa hay nhất:
Hình ảnh người cháu đi lính về quê gợi lại hình ảnh người bà làm lụng vất vả trong bài thơ “Đò lèn” của Nguyễn Duy:
“Bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”
Nhắc ta nhớ đến tình cảm sâu nặng của bà trong bài thơ “Bếp lửa”. Nhà văn đã khắc họa hình ảnh người bà với vẻ đẹp cần cù, đức hi sinh, thủy chung son sắt, qua đó thể hiện lòng kính trọng sâu sắc đối với bà. Khơi dậy trong trí nhớ của đứa cháu lớn lên, nó nhớ về bà ngoại khi bắt gặp một hình ảnh quen thuộc:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Người bà đã đau đáu, tỉ mỉ và cần mẫn thắp lên ngọn lửa đã cháy thành đôi mắt của đứa cháu ngày hôm nay. Hình ảnh bàn tay cần mẫn của người bà cần mẫn vuốt ve ngọn lửa bập bùng sáng choang. Dấu ấn suốt cuộc đời bà là những gian nan, vất vả, hình ảnh ẩn dụ “dãi nắng dãi mưa” tượng trưng cho những vất vả đang đè nặng lên tấm thân già của bà. Hình ảnh ấy đã khơi dậy niềm thương cảm, xót xa của người cháu, làm cho nỗi nhớ của bà rõ ràng và chân thực hơn:
“ Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
…Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,”
Khi cháu lên bốn đó là thời gian nguy hiểm nhất của chiến tranh: đói hoành hành, địch tàn phá hậu phương. Một mình bà chăm sóc đứa cháu thơ dại, suốt 8 năm “cháu và bà nhóm lửa”. Phải chăng cô luôn kiên trì nhen nhóm hơi ấm của cuộc sống bền bỉ?
Cô không chỉ trở thành người cha, người mẹ của các cháu khi cha mẹ bận công tác nơi tiền tuyến, mà cô còn là người thầy tận tình chỉ bảo các cháu. Việc lặp lại từ “bà” với hàng loạt động từ “bảo ban, dạy dỗ, lo cho em ăn học” giúp ta hình dung chính bà là người khắc sâu lòng căm thù giặc trong lòng ta qua những câu chuyện do bà kể.
Nỗi vất vả của bà càng nặng nề hơn khi bà nuôi nấng hai đứa cháu trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn đủ bề về vật chất. Nhà thơ đã khắc họa hình ảnh người bà với tình thương cháu vô bờ bến, có lẽ bà muốn bù đắp phần nào nỗi bất hạnh trong tuổi thơ của đứa con thơ. Bà không chỉ giàu lòng yêu thương cháu mà còn giàu đức hi sinh, vị tha:
“Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Kìm nén nỗi đau một mình bà chịu đựng tất cả nên khuyên người cháu “đừng kể này kể nọ” về những gian khổ nơi đất mẹ: “Giặc đốt làng rồi” vì muốn yên lòng người dân nơi đó nhân viên cứu hỏa để họ làm tốt công việc của mình. Lòng vị tha của bà đã giúp bà và dân làng làm hậu phương vững chắc cho tiền tuyến đánh giặc. Bà luôn nuôi dưỡng và ấp ủ một niềm tin không bao giờ ngừng bị dập tắt, một niềm tin nhỏ nhoi nhưng bền bỉ, được nhen nhóm bằng cả trái tim và trái tim nhân hậu:
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Thông điệp ấm áp về “ngọn lửa” vẫn cháy âm ỉ từng ngày được bà nâng niu, biến hình ảnh bếp lửa thành hình ảnh tượng trưng:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm tình yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ”
Hành động “nhóm” bếp lặp lại đến bốn lần đã nhấn mạnh thói quen hàng ngày của bà như một nếp sống trong cuộc đời dài “bận rộn” của bà. Nhưng hành động đơn giản đó lại có một sức mạnh kỳ lạ. Nó thắt chặt tình làng nghĩa xóm bằng củ sắn hay nồi xôi thơm từ bếp lửa mẹ nấu. Giấc mơ về đứa cháu một thời bà đã quên, nay ở bên bà, những cảm giác ấy như sống dậy khi sưởi ấm tâm hồn bà. Vì vậy, cô không chỉ là người tạo và giữ lửa mà còn là người truyền lửa.
Qua dòng kí ức tuổi thơ của người cháu, bài thơ “Bếp lửa” gửi gắm lòng biết ơn sâu sắc đối với người bà. Nhà thơ Bằng Việt đã khéo léo xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, vừa làm nổi bật vẻ đẹp cao siêu, vừa tạo nên sức gợi của hình tượng thơ.
3. Phân tích hình ảnh người bà trong Bếp lửa ấn tượng nhất:
Lep Ton-stoi từng nói: “Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu”. Tình yêu con người, yêu cuộc sống là hạt giống lành mạnh nuôi dưỡng nhân cách, tài năng con người, đồng thời cũng là nguồn cảm hứng cho mọi văn nghệ sĩ. Cùng chung cội nguồn gia đình, nếu như nữ nghệ sĩ Xuân Quỳnh khiến người đọc nhớ về một thời với người bà thân yêu với giọng hát đằm thắm, với hình ảnh “tay bà ôm trứng” thì Bằng Việt lại gợi nhớ về một người phụ nữ nhân hậu, giàu lòng nhân ái, yêu bà, yêu dân tộc và đặc biệt là người bà gắn liền với hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam: “Bếp lửa”.
“Bếp lửa” giống như bông hoa đầu tiên mà Bằng Việt tự tay gửi đến bạn đọc khi còn là sinh viên năm thứ hai du học ở Liên Xô. Xa gia đình, bạn bè, quê hương, đến xứ lạ, anh bồi hồi nhớ về những kỉ niệm tuổi thơ bên bếp lửa với người bà đáng kính. Đó là hình ảnh ngọn lửa bập bùng trên tường trong sương sớm được bàn tay mẹ che chở. Hình ảnh “Ngọn lửa ấm” gợi cho ta hình ảnh bếp lửa với đôi bàn tay gầy guộc của bà già thắp lửa, che chở cho ngọn lửa cháy sáng, khiến ta hình dung ra những cái ôm. nâng niu, chăm sóc, yêu thương, chăm sóc mà bà đã dành cho cháu mình trong những ngày thơ ấu.
Và rồi trong ký ức của tôi hiện lên bốn tuổi, tám tuổi. Những kỉ niệm tuổi thơ cứ hiện về trong kí ức tôi như một thước phim quay chậm, đó là kỉ niệm “Tám năm cùng bà nhóm lửa”. Lời thơ như một lời thủ thỉ, như một câu chuyện trong cuộc sống tình yêu. Làm tôi nhớ đến nhiều câu chuyện mà bà tôi đã kể cho tôi nghe. Trong những năm bố mẹ tôi đi công tác xa, tôi và bà nội rất gắn bó với nhau. Tôi ở với bà, được bà nuôi nấng, chăm sóc “bà bảo cháu nghe”, “bà dạy cháu học”, “bà chăm cháu”.
Trong tôi lại hiện về ký ức năm nào giặc phá làng, đốt làng, túp lều tranh của ông bà tôi cũng bị đốt cháy. Trong những năm tháng khắc nghiệt đó, tôi nhớ như in lời dạy của cô:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”
Cuộc sống của hai bà cháu vô cùng khó khăn, khốn khổ trong cảnh màn trời chiếu đất, nhất là những ngày đen tối. So với thực tế cuộc sống, họ không tuân theo phương châm về lượng. Cô nói với tôi như vậy để bố mẹ tôi yên tâm làm việc. Từ lời dặn ấy, ta thấy ở bà những phẩm chất thật cao quý: giàu lòng yêu thương con cháu, hi sinh hạnh phúc tuổi già để đổi lấy độc lập dân tộc và đặc biệt là bản lĩnh, vững vàng trước mọi khó khăn. Tuy không trực tiếp tham chiến nhưng cô là chỗ dựa vững chắc cho tiền tuyến. Cảm nhận được sự hy sinh cao cả của chị, chúng tôi ghi nhớ trong lòng biết bao bà mẹ Việt Nam anh hùng đã rơi bao giọt nước mắt khi phải tiễn chồng con ra tiền tuyến, người mẹ địu con thơ.
Người cháu bày tỏ suy nghĩ của mình về ngọn lửa bà thắp và cả về bà:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
“Bếp nhà bà” là một hình ảnh thực – ngọn lửa bập bùng bằng rơm, củi do bàn tay gầy guộc của bà thắp lên. Từ hình ảnh bếp lửa, nhà thơ liên tưởng sâu sắc đến ngọn lửa ấm áp tình yêu thương mà bà luôn ấp ủ cho đứa cháu, bù đắp cho cháu khi xa cha mẹ. “Ngọn lửa niềm tin bền bỉ” là ngọn lửa niềm tin vào cuộc sống, với sức sống bền bỉ, mạnh mẽ mà bà nội đã truyền lại cho người cháu. Bà không chỉ là người thắp lửa mà còn là người giữ lửa, truyền lửa, ngọn lửa của cô thật thiêng liêng, cao cả và vĩ đại.
Dù cuộc sống còn nhiều gian nan, vất vả, nắng mưa nhưng chị vẫn “giữ thói quen dậy sớm” – một người có trách nhiệm, siêng năng, yêu nghề, chăm chỉ. Đối với tôi, ngọn lửa của bà rất quan trọng:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
Thơ Bằng Việt nhẹ nhàng, êm đềm, có cảm giác như một câu chuyện. Người bà hiện lên trong tâm trí nhà thơ và ông dành cho bà sự yêu thương, kính trọng. Bài thơ cũng là lời nhắc nhở mỗi chúng ta: hãy luôn trân trọng những người xung quanh ta, vì họ chính là cuộc sống của ta.