Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán:
1.1. Mở bài:
– Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, học vấn uyên bác, đặc biệt có tài làm thơ bằng chữ Nôm.
Truyện Kiều là tác phẩm văn học bất hủ thể hiện rõ nhất tư tưởng, tình cảm và tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du.
– Giới thiệu chung về đoạn trích: Thúy Kiều trả thù, khắc họa cảnh Kiều báo đáp công ơn người đã giúp đỡ mình trong lúc hoạn nạn, đồng thời trừng trị kẻ bất nhân, tàn ác.
1.2. Thân bài:
* Tóm tắt đoạn trích
– Vị trí: Nằm cuối phần 2 “Biến động và lưu lạc”
– Nội dung chính:
+ Tả cảnh Kiều trả ơn người đã cưu mang, giúp đỡ mình lúc hoạn nạn.
+ Kiều trừng phạt những kẻ bất nhân, độc ác, hại mình trong cảnh lang thang.
* Luận điểm 1: Thúy Kiều trả ơn Thúc Sinh
– Người được mời đầu tiên là Thúc Sinh: “Trao gươm cho Thúc Lang” -> Đúng với phẩm chất nhân hậu vốn có của mình, Thúy Kiều đã nghĩ đến việc trả ơn trước.
+ Trước cảnh hùng vĩ của “đao to, giáo dài”, Thúc sợ hãi đến mức “mặt như chàm, mình run”, bất tỉnh, bước đi loạng choạng.
-> Hình ảnh đáng thương phù hợp với tính cách của Thúc Sinh: tốt bụng, tình cảm nhưng yếu đuối, dám yêu nhưng không đủ dũng cảm để bảo vệ người mình yêu.
– Lời nói của Kiều cho thấy nàng rất cảm kích trước hành động nhân nghĩa mà Thúc Sinh đã làm cho mình trong lúc hoạn nạn:
+ Thúc Sinh chuộc Kiều khỏi lầu xanh, cứu nàng khỏi kiếp ô nhục, Kiều có cuộc sống tạm yên ổn ở đời với Thúc Sinh. Cô gọi đó là “nghĩa nặng ngàn cân”, cô không bao giờ quên.
+ Kiều ân cần nhờ Thúc Sinh trấn an. Hai từ “người cũ” mang sắc thái thân mật, gần gũi thể hiện lòng biết ơn chân thành của cô.
-> Cách nói trang trọng này phù hợp với người thư sinh họ Thúc, đồng thời thể hiện lòng biết ơn, kính trọng của Kiều.
– Vì muốn thoát khỏi cảnh: “Sống làm vợ khắp thiên hạ, Kiều nhận lời làm vợ lẽ của Thúc Sinh.
Nhưng cũng vì quyến luyến Thúc Sinh mà Kiều khốn khổ với thân phận tôi tớ khi rơi vào tay người vợ cả của Thúc Sinh là Hoạn Thư.
Nàng tin rằng nỗi đau của mình không phải do Thúc Sinh gây ra.
+ Thúy Kiều cũng hiểu hoàn cảnh khó khăn và tâm trạng của Thúc Sinh: yêu nàng nhưng không đủ sức để che chở cho nàng. Nàng không oán trách mà đem “Trăm gấm ngàn cân bạc” để đền đáp công ơn của Thúc Sinh nhưng vẫn khiêm tốn bày tỏ: “Nhờ người thì dễ mang ơn”.
-> Thuý Kiều là người trọng tình nghĩa.
– Trong lúc nói chuyện với Thúc Sinh, Thúy Kiều có nhắc đến Hoạn Thư:
+ Vết thương lòng mà Hoạn Thư gây ra cho nàng vẫn đang rỉ máu, khiến nàng không chỉ đau đớn về thể xác mà còn đau đớn về tinh thần:
– Nói về lòng tốt của Thúc Sinh, cách nói của Kiều rất trang trọng.
=> Thúy Kiều là người có tấm lòng nhân hậu “Chớ quên chút ân nghĩa”.
* Luận điểm 2: Thúy Kiều trả thù Hoạn Thư
– Thái độ và lời nói của Thúy Kiều:
+ Lần này Kiều và Hoạn Thư gặp nhau ở một vị trí đã bị thay đổi: Kiều đứng ở vị trí quan tòa, Hoạn Thư đứng ở vị trí người bị xét xử.
+ Kiều vẫn dùng xưng hô như khi còn là Hoa Nô đối với nhà Hoạn Thư.
=> Cả hành động và lời nói của Kiều đều thể hiện sự mỉa mai, phê phán. Cách gọi này cũng là một đòn mạnh giáng vào mặt người phụ nữ Trung Quốc có thói ghen tuông kinh hoàng.
+ Không chỉ mỉa mai, lời lẽ của Kiều còn mang giọng điệu giễu cợt: câu thơ có vẻ cạn lời, lặp từ nhấn mạnh
-> Cách nói hoàn toàn phù hợp với nhân vật Hoạn Thư – một nhân vật ghê gớm và khôn ngoan, xảo quyệt:
=> Giọng điệu mỉa mai, giễu cợt của Kiều cho thấy nàng quyết tâm trừng trị Hoạn Thư. Phải chăng chính Hoạn Thư đã làm cho Kiều đau khổ, tủi nhục, biến Kiều từ một người vợ lẽ thành một người tôi tớ trong nhà.
+ Hoạn Thư kể lại “công” của mình với Kiều:
-> Hai câu thơ nhắc lại việc Hoạn Thư cho phép Thúy Kiều viết kinh ở lầu Quan Âm chứ không bắt nàng phải trốn nhà Hoạn Thư. Từ kẻ tội đồ, nạn nhân trở thành “ân nhân”, người phụ nữ này quá khôn ngoan và xảo quyệt.
+ Cuối cùng, Hoạn Thư nhận hết tội lỗi về mình, chỉ biết trông chờ vào tấm lòng bao dung, rộng lượng như trời biển của Kiều.
-> Hoạn Thư đánh trúng bản chất của Kiều:
=> Việc Hoạn Thư tự thanh minh trong ba bước chứng tỏ Hoạn Thư là người “thâm trầm”, khôn ngoan đến mức “quỷ ghét quỷ hờn”.
1.3. Kết bài:
Khái quát về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của đoạn trích
2. Phân tích đoạn trích Kiều báo ân báo oán hay nhất:
Trả thù là mô típ rất quen thuộc trong văn học dân gian, đặc biệt là trong truyện cổ tích. Ai chăm, hiền, làm điều tốt sẽ được đền đáp, kẻ gian ác sẽ bị trừng trị đích đáng. Đó là ước mơ của nhân dân ta.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng nêu lên cảnh báo trả thù. Tuy nhiên, khác nhiều so với truyện cổ tích, lời cảnh báo trả thù trong Truyện Kiều không đơn thuần là sự thể hiện khát vọng công lí của nhân dân. Sức hấp dẫn của đoạn trích chủ yếu thể hiện ở khả năng khắc họa tâm lí nhân vật của nhà thơ. Cả đoạn trích gồm 34 câu với ba nhân vật, miêu tả rất ít, hầu như chỉ có lời Thúy Kiều nói với Thúc Sinh, lời qua lại giữa Thúy Kiều và Hoạn Thư, không chỉ có chân dung, từ giọng điệu. Tính cách của từng nhân vật được thể hiện rất sinh động.
Có thể dễ dàng nhận thấy trong đoạn trích có hai cảnh: báo ân và báo oán.
Khi Thúc Sinh bị “gươm mời”, “Mặt như chàm, thân dễ lay động. Thúc Sinh run sợ vì nhiều lẽ: trước ba mũi gươm giáo sáng loáng; từng chứng kiến cảnh Thúy Kiều trừng trị kẻ gian đã gây chuyện thì dù có chịu bao nhiêu đau khổ trong đời, nàng lại càng cảm động. Thúc Sinh không thể nghĩ rằng mình sẽ được thưởng “trăm sách, nghìn cân” bởi thực ra chàng cũng không hề chứng kiến sự việc. Cảnh vợ bị Thúy Kiều hành hạ, Thúc Sinh chỉ biết ngậm đắng nuốt cay không biết bao biện.
Vậy tại sao Thúc Sinh lại được Thúy Kiều “tặng thưởng” một cách hào phóng như vậy?Có lẽ chính bởi những biến cố mà Thúy Kiều đã gặp phải:
Nàng rằng: “Nghĩa nặng tình non,
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?
Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân,
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là…”.
Lí lẽ của Thúy Kiều rất rõ ràng: đây không phải là sự trả lại, mà là sự trả lại, là tình nghĩa mà Thúc Sinh đã dành cho nàng trước đây. Thúy Kiều đã giải quyết ân oán bằng tình nghĩa chứ không còn là lý lẽ nữa. Qua những lý do để tha tội cho Hoạn Thư, ta thấy nàng là mẫu người hiểu biết sâu sắc, thế gian là ma quỷ. Tuy nhiên, việc Hoạn Thư được trắng án không hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự biện minh của nàng mà chủ yếu là ở tấm lòng độ lượng của Kiều. Hành trình trả thù của Vương Thúy Kiều một lần nữa chứng tỏ tấm lòng vị tha, đáng quý của người con gái tài sắc họ Vương và cũng là của tác giả Truyện Kiều.
Từ thân phận con người bị áp bức, đau khổ, Thúy Kiều đã xuất thân làm quan để thực thi công lý. Bài thơ phản ánh khát vọng, ước mơ về chính nghĩa và chiến thắng của nhân dân ta trong thời đại Nguyễn Du.
3. Phân tích đoạn trích Kiều báo ân báo oán ấn tượng nhất:
Trải qua bao đau thương, bất hạnh, những tưởng cuộc đời Thúy Kiều mãi chìm trong “đêm tối” của số phận, không có ngày thoát ra. Nhưng kể từ khi gặp Từ Hải, Thúy Kiều không chỉ được sống cuộc đời của một người bình thường có tước vị mà còn được Từ Hải giúp đỡ để trả mối hận. Đoạn trích “Thúy Kiều báo thù” thể hiện rõ bản án của phiên tòa ấy.
Cuộc đời có những thăng trầm, nhiều bất hạnh đi qua cuộc đời, nhưng đã từng mang ơn ai, đã gieo khổ đau cho ai, Thúy Kiều đều ghi rất rõ trong lòng.
Nay được Từ Hải tạo cơ hội trả thù, trả thù, Thúy Kiều không chỉ kêu gọi những kẻ có ân trả nghĩa mà còn đưa những kẻ đã chà đạp, khinh bỉ nàng ra trước pháp luật để trừng trị. Đoạn trích “Truyện Kiều” như một phiên tòa mà “người phán xử” là Thúy Kiều. Trước hết, Thúy Kiều tiến hành trả ơn những người có ơn với nàng trước:
“Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai,ai há phụ lòng cố nhân”
Người đầu tiên mà Thúy Kiều muốn trả ơn là Thúc Sinh. Đối với Thúc Sinh, tình yêu “nặng như núi”. Người đã cứu Kiều khỏi tay nhà Thanh, người yêu và coi Thúy Kiều như một người vợ thực sự.
Dù là đối tượng bị đáp trả nhưng Thúc Sinh vô cùng sợ hãi và lo lắng. Khi nghe Thúy Kiều kết tội Hoạn Thư, Thúc Sinh vẻ mặt đắc ý đã “toát mồ hôi”. Tuy chỉ được phác họa bằng vài dòng nhưng Nguyễn Du cũng đã khắc họa thành công tính cách, con người của Thúc Sinh: hèn nhát, nhu nhược, thiếu bản lĩnh.
Đối với người có ơn thì Thúy Kiều hết lòng báo đáp, còn với người có thù oán thì Thúy Kiều cũng phân tích rạch ròi. Điển hình cho cách trả thù này là nhân vật Hoạn Thư. Về phần Hoạn Thư, ngay từ khi nhìn thấy, Thúy Kiều đã lớn tiếng lên án: “Thủ phạm thực sự là Hoạn Thư”.
Lời lên án này không chỉ rõ ràng, đanh thép mà còn thể hiện sự căm giận của Thúy Kiều đối với Hoạn Thư. Không những thế, khi đối thoại với Hoạn Thư, Thúy Kiều còn nói với giọng mỉa mai:
“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây
Đàn bà dễ có mấy tay
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan
Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều”
“Tiểu thư” là cách nói trào phúng của Thúy Kiều dành cho Hoạn Thư nhằm chế giễu một người sang trọng, quyền quý như Hoạn Thư còn tồn tại cho đến ngày nay. Với Thúc Sinh, lời nói chân thành, đau đớn nhưng với Hoạn Thư, giọng đanh thép, căm giận. Cuối cùng là lời lên án rõ ràng “Càng khắc nghiệt càng bất công” như một bản án đã định sẵn cho Hoạn Thư.
Tuy nhiên, Hoạn Thư cũng là người đầy trí tuệ, chắt lọc cuộc sống. Khi bị áp giải đến “phiên tòa”, cô cũng sợ “hồn bay phách lạc”, nhưng kinh nghiệm và bản lĩnh đã khiến cô khá hơn. Tôi lấy lại bình tĩnh và đưa ra những lập luận thuyết phục:
“Rằng: Tôi chút phận đàn bà
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình
Nghĩ cho khi gác viết kinh
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo
Lòng riêng riêng những kính yêu
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”
Trước hết, lý lẽ mà Hoạn Thư đưa ra là nàng “chút phận đàn bà” nên ghen tuông, cay nghiệt với vợ lẽ của chồng cũng là “chuyện thường tình”. Nếu như lời biện minh này thoạt đầu đã động đến tấm lòng vị tha của Thúy Kiều thì đoạn thơ sau lại khiến Kiều cảm thấy mình mắc nợ Hoạn Thư:
“Nghĩ cho khi gác viết kinh
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo”
Hoạn Thư từng kể về “lòng tốt” của ông dành cho Thúy Kiều, đó là khi Thúy Kiều lên Quan Âm Các viết kinh và khi Thúy Kiều bỏ trốn, ông đã không cử người theo đuổi “đầy tình nghĩa”. Hoạn Thư kể nỗi khổ chung sống với chồng “Ai dễ động lòng ai”.
Điều này đã “thuận” vào hoàn cảnh éo le của cả mình và Thúy Kiều, đó là cảnh chung chồng, từ đó gợi cho Kiều sự đồng cảm. Có thể nói, Hoạn Thư là người thông minh, lập luận sắc bén, biết đánh vào tâm lý người đối diện. Chính vì thế Thúy Kiều cũng phải khen: “Khôn ngoan nói phải”
Như vậy, qua đoạn trích này, người đọc không chỉ được chứng kiến cảnh phân xử hấp dẫn, ly kỳ của Thúy Kiều mà qua ngòi bút tinh tế, tài hoa của Nguyễn Du, ta còn có thể hình dung nhân vật một cách sắc nét. Đây là một bản phác thảo chân dung xuất sắc của một thiên tài.