Soạn bài trước khi học bài chính là cách tốt nhất để giúp chúng ta tiếp thu kiến thức một cách nhanh chóng. Hôm nay hãy cùng chúng tôi tìm hiểu bài soạn của đoạn trích Cảnh ngày xuân để nắm bắt nội dung bài học rõ hơn nhé.
Mục lục bài viết
1. Bố cục của bài Cảnh ngày xuân:
– Phần 1 (4 câu đầu) vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên mùa xuân
– Phần 2 (8 câu tiếp): Quang cảnh Tết Thanh minh
– Phần 3 (6 câu cuối): Chị em Thúy Kiều du xuân trở về
2. Nội dung của bốn câu thơ đầu:
Bốn câu thơ đầu vẻ đẹp thiên nhiên mùa xuân:
– Hình ảnh cánh én tung bay trên bầu trời mùa xuân trong veo
– Thảm cỏ xanh tận chân trời điểm xuyết hoa lê trắng
– Không gian suối khoáng đạt, rộng rãi
– Màu sắc hài hòa gợi lên sự tinh khiết, tươi tắn, tràn đầy sức sống của mùa xuân
– Thư pháp ước lệ thể hiện không gian mùa xuân, tác giả cũng sử dụng nhiều từ ngữ gợi hình ảnh và cái hồn của cảnh vật.
3. Khung cảnh lễ hội Thanh Minh:
Khung cảnh lễ hội vào tiết Thanh minh được miêu tả trong tám câu thơ:
– Lễ tảo mộ và du xuân
– Không khí rộn ràng của lễ hội mùa xuân:
+ Nô nức yến anh
+ Dập dìu tài tử giai nhân
+ Ngựa xe như nước, áo như nêm
– Danh từ: Yến anh, chị, tài tử, mỹ nhân. Tính từ ghép: xa, gần, háo hức. Như một động từ: mua sắm, giúp đỡ
→ Hình ảnh gợi không khí rộn ràng, tươi vui, không gian rực rỡ sắc màu của mùa xuân
4. Phân tích 6 câu thơ cuối:
– Sáu câu cuối tả cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về: cảnh vật, tâm trạng con người
– Khung cảnh mang nét thanh bình, nhẹ nhàng của mùa xuân
– Con lạch nhỏ bắc qua cầu
+ Nhẹ nhàng chuyển động, mặt trời từ từ đổ bóng về tây, nước chân người lững thững
+ Thảo nào nước chảy quanh
+ Không khí lễ hội không còn, mọi vật nhợt nhạt, tĩnh mịch
– Cảnh vật, không gian thay đổi qua diễn biến tâm trạng nhân vật
+ Người buồn khi phải ra đi
+ Các từ gợi tả tâm trạng con người: “dữ dội”, “âm thanh”, “dữ dội” tô điểm cho cảnh
→ Cảm giác bâng khuâng, xao xuyến, thấm đượm một nỗi buồn dịu dàng
5. Phân tích nghệ thuật của tác phẩm:
Đoạn trích có bố cục cân đối, hợp lí
– Tuy không rõ lắm nhưng cũng có thể nói về kết cấu ba phần (mở đầu, diễn biến, kết thúc)
– Tác giả sử dụng nhiều từ tượng hình như từ gợi hình ảnh, từ gợi màu sắc, từ ghép…
– Tác giả khéo léo kết hợp miêu tả cụ thể, chi tiết với ngắt câu
→ Nguyễn Du miêu tả thiên nhiên tinh tế, tài hoa
6. Tác giả Nguyễn Du:
Nguyễn Du (1765 – 1820) tên là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên. Nguyễn Du có quê gốc ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh ra và trải qua tuổi thơ ở Thăng Long. Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống văn chương.
Cuộc đời ông gắn liền với những biến cố lịch sử cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XX. Nguyễn Du là người có kiến thức sâu rộng, am hiểu văn hóa, văn học Trung Hoa. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du bao gồm nhiều tác phẩm bằng chữ Hán và chữ Nôm có giá trị.
Một số tác phẩm như:
– Tác phẩm chữ Hán (3 tập thơ, gồm 243 bài thơ): Thanh Hiên thi tập, Nam trung ngâm ngâm, Bắc hành tạp lục.
– Tác phẩm Nôm: Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều)…
7. Bài văn phân tích Cảnh ngày xuân:
Trong thơ cổ, thiên nhiên không chỉ là trung tâm của cái đẹp mà còn là nơi gửi gắm tâm tư tình cảm của con người. Và trong Truyện Kiều bất hủ, đại thi hào Nguyễn Du đã dành tới 222 câu thơ tả cảnh thiên nhiên, trong đó đoạn trích “Cảnh ngày xuân” được coi là bức tranh đẹp nhất trong Truyện Kiều. Chỉ với 18 câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Du đã gieo vào lòng người đọc sức sống căng tràn của mùa xuân, đồng thời giúp ta cảm nhận được sự tinh tế trong lối viết miêu tả giàu hình ảnh của ông.
Bài thơ mở ra trước mắt ta khung cảnh mùa xuân tiết Thanh minh qua bốn câu thơ đầu:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Nguyễn Du vẽ nên một bức tranh mùa xuân thật đẹp. Nhà thơ đã lựa chọn những chi tiết tiêu biểu mang đặc điểm của ngày xuân để khắc họa bức tranh ấy. Cách tính thời gian khá độc đáo, nghệ thuật ước lệ gợi tả: “én”gợi sự ấm áp, dịu dàng nên mùa xuân đẹp nhất, chín nhất, sung mãn nhất. Ngày xuân trôi qua như thoi đưa, tháng giêng, tháng hai, nay tháng ba, tiết trời trong xanh, cánh én bay lượn như con thoi trên bầu trời. màu “xanh” của cỏ non, màu “trắng” của “vài bông hoa” lác đác:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Tác giả đã tái hiện một bức tranh mùa xuân tươi tắn, sinh động, gợi sự phì nhiêu. Màu xanh của cỏ non gợi lên một sức sống mãnh liệt, vĩnh hằng, một không gian rộng lớn, thoáng đãng và trong trẻo. Trên nền xanh ấy điểm xuyết vài bông hoa lê trắng. Thơ cổ Trung Hoa được Nguyễn Du nghiên cứu một cách sáng tạo “Phương Thảo Niên Bích/Lệ Chi sổ điểm hoa”. Nếu hai bài thơ chữ Hán dùng hình ảnh “phương thảo” (cỏ hương) thiên về hương thì Nguyễn Du thay bằng “cỏ non” thiên về màu sắc: xanh nhạt xen lẫn vàng chanh tươi, tương ứng với màu xanh của lá để tạo thành màu nền cho bức tranh. Những bông hoa lê tạo thành một bức tranh đẹp hài hòa, tươi tắn và trong lành. Chữ “bạch” được Nguyễn Du thêm bớt gây ấn tượng mạnh hơn. Bốn câu thơ lục bát gợi không gian thoáng đãng, trong trẻo của mùa xuân.
Mùa xuân là đầu năm, mùa cây cối đâm chồi nảy lộc, tâm hồn con người phơi phới. Mùa xuân cũng là mùa có nhiều lễ hội. Trong thơ Nguyễn Du:
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh”
Tác giả đã đưa chúng ta trở về với những lễ nghi, phong tục của người phương Đông. Lễ đào mộ là hướng về cội nguồn, tổ tiên, truyền thống văn hóa tâm linh, tri ân quá khứ. Đi tảo mộ là đi sửa sang, thắp hương tưởng nhớ người đã khuất. Còn “Hội đạp thanh” là chuyến du xuân, vui chơi trên đồng cỏ xanh của những trai tài, gái sắc, nam thanh nữ tú. Hội đạp thanh còn là sống cho hiện tại và có thể tìm ra sợi chỉ đỏ cho tương lai. Ở bốn câu thơ tiếp theo, tác giả miêu tả không khí lễ hội bằng hàng loạt từ ngữ biểu cảm: các từ “tưng bừng”, “tí hon”, “sắm sửa”; Các từ ghép Hán Việt: “Tài tử”, “Đẹp”, “Đi”, “Nan anh” kết hợp với các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, so sánh đã gợi tả sinh động cảnh tấp nập, tưng bừng trên mọi miền đất nước.
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm”
Hình ảnh so sánh giản dị “ngựa như nước, áo như nêm”, miêu tả không khí lễ hội náo nhiệt, dòng người tấp nập trẩy hội xuân trong những bộ quần áo đẹp, rực rỡ. Tác giả cũng miêu tả một nét đẹp trong ngày Tết là đốt tiền vàng để tưởng nhớ người thân đã khuất:
“Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”
Nhịp thơ 2/4 và 4/4 mang hơi buồn man mác. Phải chăng đó là tấm lòng đầy yêu thương, sẻ chia của đại thi hào Nguyễn Du dành cho những người đã khuất? Dưới sự miêu tả tinh tế của nhà thơ, lễ và hội trong tiết Thanh minh là một sự hài hòa độc đáo, chứng tỏ nhà thơ rất trân trọng những nét đẹp và những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Nếu những dòng trên tả cảnh náo nhiệt, đông đúc của ngày hội thì sáu câu thơ cuối tạo nên nhịp điệu trữ tình buồn theo từng bước chân của chị em Thúy Kiều:
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”
Cảnh có nét dịu dàng, nhẹ nhàng của một chiều xuân đầy nắng, con lạch nhỏ, nhịp cầu. Chiều muộn thường gợi lên một cảm giác buồn khó tả. Cuộc vui đã tàn, lễ hội tưng bừng đã tàn, tâm hồn con người “đồng điệu” với cảnh vật. Không gian như thu nhỏ lại, thời gian trôi chậm hơn phảng phất chút tiếc nuối, hoài niệm của lòng người. Các từ láy “tà ta”, “thanh thanh”, “nao nao”, “nhỏ nhỏ” vừa tả cảnh vừa gợi tâm trạng buồn, xao xuyến. Xảy ra trong tâm hồn nhạy cảm của Thúy Kiều, và đúng như vậy, Thúy Kiều gặp mộ “Đạm Tiên, gặp chàng trai “thượng phong, tuấn tú” – Kim Trọng như một định mệnh.
Tóm lại, bằng việc sử dụng hệ thống từ ghép, điệp ngữ giàu chất tượng hình và gợi tả, đoạn trích “Cảnh ngày xuân” xứng đáng là một bức tranh đẹp. Dưới ngòi bút của Nguyễn Du, cảnh vật hiện lên đẹp đẽ, trong trẻo nhưng nhuốm màu tâm trạng. Đây chính là yếu tố tạo nên sự thành công của đoạn trích và đưa tên tuổi Đại thi hào Nguyễn Du đến gần với bạn đọc khắp năm châu trong mọi thế kỷ.