Việc chuẩn bị giáo án không chỉ giúp chúng ta hình dung được quá trình giảng dạy, hệ thống hóa kiến thức mà còn giúp việc lên lớp đạt hiệu quả cao hơn. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu bài soạn giáo án Tiếng hát con Tàu qua viết dưới đây nhé.
Mục lục bài viết
1. Mục tiêu bài học:
1.1. Kiến thức:
– Cảm nhận được niềm khao khát được trở về với con người, đất nước với những kỉ niệm khó phai mờ trong cuộc kháng chiến chống Pháp của nhà thơ.
– Thấy được những nét nghệ thuật trong thơ Chế Lan Viên: hình ảnh sáng tạo, giàu sức liên tưởng, bất ngờ, cảm xúc gắn với suy tưởng.
1.2. Kĩ năng:
Đọc hiểu bài thơ theo đặc trưng thể loại.
2. Phương tiện thực hiện:
Giáo viên: Sách giáo viên, SGK, giáo án.
Học sinh: SGK, sgk, vở bài tập.
3. Hoạt động trải nghiệm:
Hoạt động của GV | Hoạt động của HS |
---|---|
Hoạt động 2. Hoạt động hình thành kiến thức mới HS đọc tiểu dẫn nêu vài nét chính về tác giả Chế Lan Viên?
Nêu hoàn cảnh sáng tác bài thơ? Bài thơ mang đậm phong cách sáng tác của Chế Lan Viên.
Em hiểu như thế nào về nhan đề bài thơ? Thực tế ó con tàu đi Tây Bắc không? Vậy con tàu có ý nghĩa như thế nào? Tây Bắc có ý nghĩa gì? Từ đó rút ra ý nghĩa của lời đề từ. Nên tìm hiểu bài thơ theo bố cục như thế nào?
Hai khổ đầu tác giả thể hiện nội dung gì? Biện pháp nghệ thuật nào được sử dụng?
Nội dung chính của khổ 3- 11?
Nét độc đáo của khổ 5 là gì? Biện pháp nghệ thuật gì? Ý nghĩa của khổ 5?
Những con người Tây Bắc hiện lên như thế nào?
Tình quân dân được thể hiện trong đoạn thơ như thế nào?
Nội dung của đoạn còn lại.
| I. Tìm hiểu chung: 1. Tác giả: Chế Lan Viên (1920 – 1989): – Thơ Chế Lan Viên nóng bỏng, thời sự, giàu giá trị sử thi, anh hùng ca, chính luận, mang vẻ đẹp trí tuệ độc đáo. Phong cách thơ độc đáo Chế Lan Viên: mang vẻ đẹp trí tuệ, khai thác triệt để các mối quan hệ tương phản, giàu chất suy tưởng, triết lí với thế giới hình ảnh đa dạng, phong phú, sáng tạo. Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920 (tức ngày 9 tháng 9 năm Canh Thân) tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ Thành Chung (cấp 3 hoặc cấp 2 hiện nay), rồi bỏ đi dạy tư để kiếm sống. Có thể coi Quy Nhơn, Bình Định là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn nhà thơ. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ Điểu Lữ đầu tay với lời tựa và tuyên ngôn nghệ thuật “Thơ Trường Loan”. Từ đây, tên tuổi Chế Lan Viên vang danh trong thi đàn Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn được người đương thời gọi là “bốn người bạn cùng bàn” của Bình Định. Năm 1939, ông tốt nghiệp ở Hà Nội. Sau đó, Chế Lan Viên vào Sài Gòn làm báo rồi ra Thanh Hóa dạy học. Năm 1942, ông xuất bản Sao Vàng, tập thơ triết lý về cuộc đời mang màu sắc siêu hình, thần bí. Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, ông tham gia phong trào Việt Minh ở Quy Nhơn, rồi ra Huế tham gia Đội xây dựng đội với Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Đào Duy Anh. Trong thời gian này, Chế Lan Viên đã viết và sửa bài cho các báo Quyết Thắng, Cửu Quốc, Kháng Chiến. Phong cách thơ của ông giai đoạn này cũng dần chuyển sang chủ nghĩa hiện thực. Tháng 7 năm 1949, trong chiến dịch Tà Cơn-đường 9 (Quảng Trị), Chế Lan Viên gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập báo Văn học. Từ năm 1956 đến năm 1958, ông công tác tại Vụ Văn nghệ, Ban Tuyên giáo Trung ương và cuối năm 1958 là biên tập tuần báo Văn nghệ (sau là Văn nghệ). Từ năm 1963, ông là Ủy viên Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên Ban Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Ông cũng là đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa các khóa IV, V và VI, Ủy viên Ủy ban Văn hóa – Giáo dục của Quốc hội. Sau năm 1975, ông vào Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất ngày 19 tháng 6 năm 1989 (tức ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Tỵ) tại Bệnh viện Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 68 tuổi. Con gái ông là Phan Thị Vàng Anh cũng là một nhà văn nổi tiếng. Trước Cách mạng Tháng Tám, thơ Chế Lan Viên là một thế giới theo đúng nghĩa của “trường thơ hỗn độn”: rùng rợn, bí ẩn, bế tắc của Ngày tận thế với xương, máu, đầu lâu, đổ nát…. màu xanh chàm.” Những tháp Chăm “điêu tàn” là nguồn cảm hứng đặc sắc cho Chế Lan Viên. Qua sự hoang vắng, rùng rợn trong thơ Chế Lan Viên, ta thấy thấp thoáng một vương quốc hùng mạnh thời hoàng kim, với nỗi hoài niệm của nhà thơ. Sau Cách mạng Tháng Tám, sáng tác của Chế Lan Viên đã đi theo một hướng khác, đó là thơ ông gần gũi với quần chúng hơn. Giai đoạn 1960-1975, thơ Chế Lan Viên đạt khuynh hướng sử thi anh hùng, chính luận, thời sự. Giai đoạn sau 1975, thơ ông dần hồi sinh, phản chiếu trong cái “tôi”. Bài ca con tàu được Chế Lan Viên sáng tác năm 1960, in trong tập Ánh sáng và phù sa. Đó là thời điểm miền Bắc sau những năm kháng chiến thắng lợi. Trong hoàn cảnh đó, bài thơ “Tiếng hát con tàu” ra đời góp phần làm đẹp thêm bộ phận thơ ca viết về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đoạn thơ thể hiện cái nhìn mới của Chế Lan Viên về cuộc đời và con người. Và có lẽ tác phẩm còn khiến người đọc gần gũi bởi màu sắc triết lý và sự gần gũi của nó. Mỗi người đều ý thức được con đường đi đến hòa bình và cuộc sống mới của chính mình. 2. Tác phẩm: Rút từ tập“Ánh sáng và phù sa”. – Bài thơ lấy cảm hứng từ một sự kiện lịch sử những năm 1958-1960: phong trào đồng bào miền xuôi lên xây dựng kinh tế ở miền núi Tây Bắc. II. Hướng dẫn đọc thêm: 1. Lời đề từ: – Con tàu: biểu tượng cho khát vọng ra đi. – Tây Bắc: vừa mang ý nghĩa thực, vừa mang ý nghĩa tượng trưng cho vùng đất xa xôi của Tổ quốc. ⇒ Đến với người, đến với Tây Bắc là về với lòng mình, với tình cảm sâu nặng, gắn bó. 2. Hai khổ đầu: Sự trăn trở và lời mời gọi lên đường: – Biện pháp đối phó. – Câu hỏi tu từ ⇒ nhân vật trữ tình tự phân đôi để tự vấn, đối thoại với chính mình. → Không thể có ý nghĩa cuộc sống, không có thơ hay nếu chỉ quẩn quanh trong thế giới hạn hẹp của cái tôi. 3. Khổ 3- 11: Hoài niệm về Tây Bắc trong kháng chiến . – Câu 3,4: Tây Bắc là mảnh đất của núi rừng anh hùng, cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc tôi luyện để nhà thơ hóa thân vào cuộc sống và nghệ thuật. – Câu 5: so sánh độc đáo. Được trở về với nhân dân là niềm hạnh phúc lớn lao của tác giả: được về để tắm mát, hồi sinh tâm hồn, tìm lại ý nghĩa tồn tại của mình, được quan tâm, vỗ về, được bình yên. Những hình ảnh so sánh vừa gần gũi, vừa mang vẻ đẹp thơ mượt mà, vừa có sự hài hòa giữa nhu cầu, khát vọng của bản thân với thực tại đã tô đậm niềm hạnh phúc tột đỉnh và ý nghĩa sâu xa của mọi người. – Câu 6-11: Hình ảnh Tây Bắc hiện lên qua những con người cụ thể: + Đó là người anh du kích áo nâu, người anh giao tiếp linh hoạt, dũng cảm, người mẹ nuôi lính giàu đức hi sinh, cô gái xung phong nuôi quân ở ẩn trong rừng ⇒ sự gắn bó, biết ơn của tác giả. + Các nhóm từ chỉ thời gian vĩnh cửu, các đại từ thể hiện quan hệ thân thiết, gần gũi. Bài thơ có những dòng triết lý: “Nơi chúng ta ở dẫn đến một kỳ nghỉ Khi tôi đi đến đất, tâm hồn tôi quay trở lại ⇒ Thông thường khi chúng ta ở vùng đất đó, đó chỉ là nơi tạm trú. Khi ra về tôi mới biết nơi đây đã lưu giữ một phần tâm hồn mình. ″Tình yêu làm nên quê hương xứ lạ″. ⇒ Tình yêu thương có khả năng gắn kết những tâm hồn xa lạ. 3. Còn lại: Khúc hát lên đường – Tiếng gọi của đất nước, của con người, của cuộc đời trở thành động lực bên trong khiến nhà thơ khao khát, khắc khoải: mắt thèm, tai nhớ, mắt nhớ, lòng như con tàu… – Hình ảnh tượng trưng, ẩn dụ thể hiện lẽ sống cao cả của nhân dân… thành lời động viên, kêu gọi xây dựng Tây Bắc, xây dựng Tổ quốc. – Giọng điệu thơ phong phú, hấp dẫn. → Niềm khao khát, xao xuyến, thôi thúc lên đường một cách hăng hái, nồng nàn đáp lại lời mời gọi của hai khổ thơ đầu. III. Tổng kết: Với những nét độc đáo về hình khối, với những liên tưởng bất ngờ, liên tưởng giàu cảm xúc, bài thơ là tiếng nói của trái tim nhà thơ hướng về đất nước với những kỉ niệm sâu sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đó cũng là mong muốn trở lại với cảm hứng sáng tạo thơ ca. Những thành tựu nghệ thuật của Chế Lan Viên trong quá trình sáng tác là những đóng góp to lớn cho sự phát triển của thơ ca Việt Nam nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung. Chế Lan Viên là một nhà thơ luôn có óc tò mò, khám phá và sáng tạo. Ông luôn biết kế thừa và phát huy những tinh hoa của văn học và nhân loại để tạo cho các tác phẩm của mình một vẻ đẹp riêng. Ông có nhận thức sâu sắc về chức năng của văn học và sứ mệnh thiêng liêng của người nghệ sĩ đối với cuộc đời. |