Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa lớn nhất Việt Nam, hàng năm lũ sông Mê Kông tràn về gây ngập lụt trên một diện rộng. Lũ ở ĐBSCL đem lại nhiều nguồn lợi nhưng cũng gây ra thiệt hại không nhỏ về người và của. Vậy nguyên nhân dẫn đến ngập lụt ở đồng bằng sông Cửu Long là gì?
Mục lục bài viết
1. Nguyên nhân dẫn đến ngập lụt ở đồng bằng sông Cửu Long?
Đồng bằng sông Cửu Long là một vùng đất châu thổ phong phú, nằm ở phía Nam Việt Nam, được hình thành từ cát, phù sa do sông Mê Kông mang về. Vùng đất này có khí hậu nhiệt đới gió mùa, mưa nhiều vào mùa hè và khô hanh vào mùa đông. Hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, tưới tiêu cho nhiều vùng trồng trọt, đặc biệt là lúa nước.
Tuy nhiên, hàng năm, Đồng bằng sông Cửu Long cũng phải đối mặt với hiện tượng ngập lụt kéo dài từ tháng 8 đến tháng 11. Nguyên nhân chính gây ngập lụt ở đây là do mưa lớn và triều cường. Mưa lớn là do ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam từ biển thổi vào, mang theo không khí ẩm và mây. Triều cường là do ảnh hưởng của vị trí Mặt Trăng và Mặt Trời so với Trái Đất, tạo ra lực hấp dẫn kéo nước biển lên xuống theo chu kỳ. Khi Mặt Trăng và Mặt Trời cùng nằm trên một đường thẳng với Trái Đất (trạng thái trăng mới hoặc trăng tròn), triều cường lên cao nhất (triều cường kỳ).
Khi mưa lớn kết hợp với triều cường kỳ, mực nước sông Mê Kông và các chi lưu của nó dâng cao, không thoát được ra biển mà tràn ngược vào các kênh rạch và vùng đất thấp trong lòng đồng bằng. Theo số liệu của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia, lượng mưa trung bình hàng năm ở ĐBSCL khoảng 1.600 – 2.000 mm, trong đó khoảng 80% rơi vào mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10. Lượng mưa này cộng với lượng nước đổ về từ các nhánh sông Mê Kông tạo ra dòng chảy lớn, đạt đỉnh vào tháng 9 và tháng 10.
Đồng thời, do các hoạt động của con người gây ra, bao gồm phá rừng, xây dựng đập thủy điện, phát triển đô thị và nông nghiệp không hợp lí. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, diện tích rừng tự nhiên của ĐBSCL giảm từ 1,2 triệu ha năm 1943 xuống còn 0,6 triệu ha năm 2010. Việc phá rừng làm giảm khả năng hấp thụ và giữ nước của đất, tăng nguy cơ xói mòn và sạt lở bờ sông. Theo Tổ chức Lưu vực sông Mê Kông (MRC), có hơn 200 công trình thủy điện đã hoàn thành hoặc đang xây dựng trên các nhánh sông Mê Kông. Những công trình này có thể làm thay đổi lưu lượng và mực nước sông, cản trở quá trình di chuyển của phù sa và sinh vật sống trong sông. Theo Sở Xây dựng tỉnh An Giang, tỷ lệ đô thị hóa của ĐBSCL tăng từ 23,8% năm 2005 lên 34,3% năm 2015. Việc phát triển đô thị không kiểm soát làm giảm diện tích đất trống và cây xanh, tăng áp lực cho hệ thống thoát nước và hạ tầng kỹ thuật. Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Đồng Tháp, diện tích canh tác lúa của ĐBSCL tăng từ 3,36 triệu ha năm 2000 lên 4,16 triệu ha năm 2010. Việc canh tác quá mức làm suy giảm chất lượng đất, giảm khả năng chống chịu của cây trồng trước ngập lụt.
2. Thuận lợi của ngập lụt ở đồng bằng sông Cửu Long:
Lũ ở đồng bằng sông Cửu Long là hiện tượng tự nhiên và xảy ra hàng năm, đem lại nhiều nguồn lợi cho người dân trong khu vực. Dưới đây là một số thuận lợi của lũ ở đồng bằng sông Cửu Long:
– Thau chua, rửa mặn đất đồng bằng: Lũ giúp cung cấp nguồn nước ngọt quan trọng để thau chua, rửa mặn đất cho phần lớn diện tích đất nhiễm phèn nhiễm mặn ở đồng bằng, giúp cải tạo đất và tăng năng suất cây trồng.
– Bồi đắp phù sa tự nhiên, mở rộng diện tích đồng bằng: Lũ mang theo phù sa từ thượng nguồn sông Mê Kông và bồi đắp cho vùng châu thổ, giúp tăng khả năng giữ nước và dinh dưỡng của đất. Hằng năm, đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục mở rộng về phía biển hàng chục mét.
– Du lịch sinh thái trên kênh rạch và rừng ngập mặn: Ngập lụt tạo điều kiện cho du lịch sinh thái phát triển trên các kênh rạch và rừng ngập mặn, như rừng Tràm Trà Sư, rừng U Minh Hạ, khu du lịch Tháp Mười… Lũ cũng mang lại nguồn lợi thủy sản giàu có cho vùng, như cá linh, cá trê, cá lóc, tép…
– Giao thông trên kênh rạch: Làm tăng mực nước của các kênh rạch, thuận tiện cho giao thông thủy trên các tuyến đường sông và giúp làm sạch các kênh rạch và ngăn chặn sự xâm nhập của biển vào các vùng trong nội đồng.
3. Khó khăn của ngập lụt ở đồng bằng sông Cửu Long:
– Làm hư hại nhiều diện tích lúa, rau màu và các loại cây trồng khác, ảnh hưởng đến thu nhập và an ninh lương thực của người dân.
– Làm gián đoạn giao thông đường bộ, đường sắt và đường thủy, gây khó khăn cho việc vận chuyển hàng hóa, du lịch và cứu trợ.
– Tăng nguy cơ dịch bệnh, nhất là các bệnh do nước bẩn và muỗi truyền nhiễm như tiêu chảy, viêm gan, sốt rét, sốt xuất huyết và bệnh da liễu.
– Sạt lở bờ sông, kênh rạch, đê bao và các công trình thủy lợi, gây mất an toàn cho người dân và tài sản.
– Làm giảm chất lượng nước ngọt, gây xâm nhập mặn vào các vùng trồng cây ăn trái và nuôi trồng thủy sản.
Ngập lụt ở đồng bằng sông Cửu Long cũng có một số tác dụng tích cực như bổ sung phân bón tự nhiên cho đất, tạo điều kiện cho người dân khai thác các loại cá, tôm và các sản vật khác từ nước lũ. Tuy nhiên, những tác dụng này không đủ để bù đắp cho những thiệt hại do ngập lụt gây ra. Do đó, việc phòng chống và giảm nhẹ thiệt hại do ngập lụt là một trong những nhiệm vụ quan trọng của chính quyền và người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long.
4. Giải pháp khắc phục thiệt hại do ngập lụt ở đồng bằng sông Cửu Long:
Một số giải pháp để giảm thiểu khó khăn và thiệt hại do ngập lụt ở ĐBSCL là:
– Đắp đê bao để hạn chế lũ nhỏ và bảo vệ các khu dân cư, công trình công cộng và diện tích canh tác. Đê bao cần được xây dựng theo tiêu chuẩn kỹ thuật cao, chịu được áp lực của nước và có hệ thống thoát nước hiệu quả.
– Tiêu lũ ra vùng biển phía tây theo các kênh rạch tự nhiên hoặc nhân tạo. Đây là cách giúp giảm áp suất của dòng chảy sông Cửu Long và tận dụng nguồn nước ngọt cho các hoạt động sản xuất và sinh hoạt. Tuy nhiên, cần phải kiểm soát mức độ tiêu lũ để tránh gây xói mòn bờ biển và mất cân bằng sinh thái.
– Sống chung với lũ bằng cách thích ứng với điều kiện tự nhiên và tận dụng các nguồn lợi từ lũ. Một số biện pháp cụ thể là làm nhà nổi, làng nổi, trồng cây theo mùa nước, nuôi cá trong lồng bè, khai thác thủy sản tự nhiên, xây dựng các công trình công ích phục vụ cho việc di chuyển và giáo dục trong mùa lũ.
– Xây dựng nhà ở tại các vùng đất cao hoặc nâng cao mặt bằng địa hình để tránh bị ngập úng. Đồng thời, cần có quy hoạch đô thị hợp lí, hạn chế xây dựng các công trình vi phạm quy định về an toàn lũ, tạo ra các khu dân cư xanh và bền vững.
– Xây dựng hệ thống đê điều, cống thoát nước, trạm bơm và các công trình phòng chống lũ lụt khác để kiểm soát lượng nước vào và ra các khu vực trồng trọt, đô thị và khu dân cư.
– Ứng dụng các biện pháp canh tác thích ứng với ngập lụt, như chọn giống lúa chịu nước, chịu mặn, chịu sâu bệnh; điều chỉnh thời vụ gieo cấy; áp dụng các phương pháp trồng trọt tiết kiệm nước và bảo vệ đất.
– Tận dụng nguồn lợi từ ngập lụt để phát triển du lịch sinh thái, khai thác các sản phẩm đặc sản của vùng lũ như cá linh, cá rô đồng, bún bèo, sen đồng. Tạo ra các sản phẩm du lịch sáng tạo và hấp dẫn, như du lịch khám phá rừng tràm Trà Sư, du lịch câu cá trên sông, du lịch thưởng thức ẩm thực địa phương.
– Tăng cường công tác dự báo, cảnh báo và thông tin ngập lụt cho người dân, đặc biệt là những vùng có nguy cơ cao bị ngập lụt. Nâng cao nhận thức và kỹ năng phòng chống lũ lụt cho người dân, đồng thời chuẩn bị các phương tiện cứu hộ, cứu nạn và hỗ trợ người dân khi xảy ra ngập lụt.
– Hợp tác với các quốc gia trong lưu vực sông Mekong để quản lý chung nguồn nước, giảm thiểu tác động của các đập thủy điện và các hoạt động khai thác nước trên sông Mekong đến ngập lụt ở ĐBSCL.
– Thực hiện quản lí và bảo vệ rừng bền vững, hạn chế phá rừng trái phép, khuyến khích trồng rừng mới và tái sinh rừng tự nhiên.