Địa hình nước ta đa dạng và chia thành các khu vực địa hình khác nhau: đồi núi, đồng bằng, bờ biển và thềm lục địa. Hãy cùng tìm hiểu thêm về chủ đề Địa hình núi nước ta được chia thành bốn vùng là gì? qua bài viết dưới đây nhé!
Mục lục bài viết
1. Vùng núi Đông Bắc:
Vùng núi Đông Bắc Việt Nam là một vùng địa lý nằm ở phía đông bắc của đồng bằng sông Hồng, gồm chín tỉnh: Hà Giang, Phú Thọ, Cao Bằng, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Bắc Giang, Lạng Sơn và Quảng Ninh. Đây là một vùng đồi núi thấp, có hướng nghiêng chung từ tây bắc xuống đông nam. Vùng có bốn cánh cung núi lớn là Sông Gâm, Ngân Sơn, Bắc Sơn và Đông Triều, chụm lại ở dãy Tam Đảo và mở rộng về phía bắc và phía đông. Vùng còn có các đồng bằng nhỏ như Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang… và có địa hình các-xtơ đá vôi độc đáo có mặt ở nhiều nơi.
Vùng núi Đông Bắc là một trong những vùng địa lý quan trọng của Việt Nam, có diện tích khoảng 51.000 km2, chiếm 15,5% diện tích cả nước, có các đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội như sau:
– Địa hình: núi trung bình và núi thấp, với nhiều dãy núi hình cánh cung, chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Độ cao trung bình của vùng là 300 – 500 m, cao nhất là núi Tây Côn Lĩnh (2.419 m) và núi Phia Biọc (2.048 m). Vùng có nhiều thung lũng rộng và sâu, là nơi sinh sống của các dân tộc thiểu số và phát triển nông nghiệp.
– Khí hậu: nhiệt đới ẩm gió mùa, có hai mùa rõ rệt: mùa khô từ tháng 10 đến tháng 4 và mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9. Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 18 – 22 độ C, thấp nhất vào tháng 1 (khoảng 10 – 15 độ C) và cao nhất vào tháng 7 (khoảng 25 – 30 độ C). Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.500 – 2.500 mm, cao nhất vào tháng 8 và thấp nhất vào tháng 2. Vùng có khí hậu khắc nghiệt vào mùa đông, khi bị ảnh hưởng của không khí lạnh từ phía Bắc, gây ra rét đậm, rét hại và sương muối.
– Thực vật và động vật: đa dạng sinh học phong phú, với nhiều loại rừng khác nhau: rừng nguyên sinh, rừng phục hồi tự nhiên, rừng trồng và rừng rụng lá theo mùa. Rừng chiếm khoảng 70% diện tích vùng, là nơi cư trú của nhiều loài động vật quý hiếm như: voi, gấu, khỉ, chó rừng, mèo rừng, ngựa vằn, chim công… Vùng cũng có nhiều loại cây công nghiệp như: chè, cà phê, cao su, điều, tiêu… và cây lâm nghiệp như: thông, keo, sồi…
– Dân cư: dân số khoảng 10 triệu người (năm 2019), chiếm khoảng 10% dân số cả nước. Vùng có sự đa dạng về dân tộc, với hơn 20 dân tộc thiểu số sinh sống, chiếm khoảng 30% dân số vùng. Các dân tộc thiểu số chủ yếu là: Tày, Nùng, Dao, H’Mông, Sán Chỉ… có những nét văn hoá đặc sắc, phong phú về tín ngưỡng, lễ hội, âm nhạc, trang phục, ẩm thực… Nơi đây cũng có nhiều di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: Thác Bản Giốc, Động Ngườm Ngao, Cốc Bó, Pắc Bó, Mẫu Sơn, Đền Hùng…
– Kinh tế: nền kinh tế đa ngành, đa lĩnh vực, với ba ngành chủ lực là: nông nghiệp, công nghiệp và du lịch. Nông nghiệp chiếm khoảng 20% GDP vùng, chủ yếu là trồng lúa, ngô, khoai, sắn và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Công nghiệp chiếm khoảng 40% GDP, tập trung vào các ngành như: khai thác và chế biến khoáng sản (than, đá vôi, bô xít…), sản xuất thép, xi măng, phân bón, điện tử, dệt may… Du lịch chiếm khoảng 10% GDP vùng, phát triển dựa trên tiềm năng về thiên nhiên và văn hoá của vùng. Các ngành khác như: dịch vụ, thương mại, giao thông… chiếm khoảng 30% GDP.
2. Vùng núi Tây Bắc:
Vùng Tây Bắc là một trong những vùng địa lý của Việt Nam, bao gồm các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Hòa Bình, Lào Cai và Yên Bái, có biên giới với Lào và Trung Quốc. Vùng này có đặc điểm tự nhiên và đặc điểm kinh tế – xã hội đa dạng và phong phú.
Về đặc điểm tự nhiên, vùng Tây Bắc có diện tích tự nhiên là 3.741.263 ha, chiếm 11,3% diện tích cả nước. Địa hình của vùng chủ yếu là núi cao, đồi núi trung bình và thấp, có nhiều khối núi lớn như Hoàng Liên Sơn, Phan Xi Păng, Pú Luông… Vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, có hai mùa rõ rệt: mùa khô từ tháng 10 đến tháng 4 và mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9. Nhiệt độ trung bình năm dao động từ 18 đến 23 độ C, lượng mưa trung bình năm từ 1.500 đến 2.500 mm. Vùng Tây Bắc có nguồn nước phong phú, với các sông lớn như Đà, Mã, Lô, Chảy… và nhiều hồ nhân tạo như Hòa Bình, Sơn La, Thác Bà… Vùng có tiềm năng rừng lớn, với diện tích rừng tự nhiên là 2.300.000 ha, chiếm 61% diện tích tự nhiên của vùng. Rừng Tây Bắc có đa dạng sinh học cao, là nơi sinh sống của nhiều loài động thực vật quý hiếm.
Về đặc điểm kinh tế – xã hội, vùng Tây Bắc có dân số khoảng 2,7 triệu người (năm 2007), chiếm 3% dân số cả nước. Vì thế mà vùng có sự giao thoa của nhiều dân tộc anh em, trong đó có các dân tộc thiểu số như Thái, Mường, H’Mông, Dao, Tày… Các dân tộc này có những nét văn hóa truyền thống đặc sắc, như lễ hội, âm nhạc, trang phục, kiến trúc… Vùng Tây Bắc là vùng kinh tế chậm phát triển nhất cả nước, với thu nhập bình quân đầu người thấp và tỷ lệ người nghèo cao. Cơ cấu kinh tế của vùng chủ yếu là nông – lâm – ngư nghiệp, chiếm khoảng 41% GDP vùng (năm 2007). Các sản phẩm chính của ngành này là lúa, ngô, khoai sắn, cây công nghiệp (chè, cà phê…), cây thuốc (đinh hương, quế…), chăn nuôi gia súc gia cầm và khai thác lâm sản. Ngành công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng 23% GDP vùng (năm 2007), trong đó có các ngành mũi nhọn như thủy điện (Hòa Bình, Sơn La…), khai thác khoáng sản (than Đèo Nai, bô xít Tân Rai…), chế biến lâm sản (giấy Bãi Bằng, gỗ Mộc Châu…), chế biến nông sản (rượu Sơn La, mật ong Hoàng Su Phì…). Ngành dịch vụ và thương mại chiếm khoảng 35% GDP vùng (năm 2007), trong đó có các ngành tiềm năng như du lịch (Sa Pa, Điện Biên Phủ, Mộc Châu…), giao thông vận tải (Quốc lộ 6, 32, 37…), kinh tế biên mậu (Lào Cai, Điện Biên…).
Vùng Tây Bắc có nhiều đặc điểm tự nhiên và đặc điểm kinh tế – xã hội riêng biệt, tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo của vùng. Vùng cũng có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển kinh tế – xã hội theo hướng bền vững, gắn với bảo vệ môi trường và nâng cao đời sống người dân.
3. Vùng núi Trường Sơn Bắc:
Vùng núi Trường Sơn Bắc là một phần của dãy Trường Sơn, kéo dài từ tỉnh Quảng Bình đến tỉnh Nghệ An, có độ cao trung bình từ 1.000 đến 2.000 mét. Đây là vùng có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, nhưng cũng là nơi có nhiều giá trị về tự nhiên và kinh tế xã hội.
Trường Sơn Bắc có đa dạng về địa chất, địa mạo, thổ nhưỡng, khí hậu và sinh thái. Địa chất chủ yếu là đá granit và đá phiến cổ sinh hạ, tạo nên những ngọn núi cao và dốc. Địa mạo thì gồm các dãy núi chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, xen kẽ với các thung lũng sông suối. Thổ nhưỡng phân bố theo độ cao và độ dốc, có ba loại chính là thổ nhưỡng rừng phù sa, thổ nhưỡng rừng đỏ vàng và thổ nhưỡng rừng xám. Khí hậu thuộc loại khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, có hai mùa rõ rệt là mùa khô và mùa mưa. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 18 đến 22 độ C, lượng mưa trung bình hàng năm từ 2.000 đến 3.000 mm. Sinh thái rất phong phú và đa dạng, có hơn 700 loài thực vật và hơn 300 loài động vật, trong đó có nhiều loài quý hiếm và có giá trị kinh tế.
Vùng núi Trường Sơn Bắc là nơi sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số như Thái, Mông, Khơ Mú… Các dân tộc này có những nét văn hóa đặc sắc, phong phú và độc đáo, được thể hiện qua các lễ hội, tín ngưỡng, âm nhạc, trang phục… Kinh tế chủ yếu dựa vào nông – lâm nghiệp và thủy sản, trong đó có các sản phẩm truyền thống như gạo nếp nương, gừng, gà đen… Ngoài ra, vùng còn có tiềm năng phát triển du lịch sinh thái và du lịch văn hóa nhờ vào các danh lam thắng cảnh như Pù Xai Lai Leng, Tam Giang – Cầu Hai, Bạch Mã – Hải Vân… và các di tích lịch sử như Hồ Chí Minh Trail, Khe Sanh…
4. Vùng núi Trường Sơn Nam:
Trường Sơn Nam là một dãy núi trung bình phân bố liên tục theo hướng Tây Bắc – Đông Nam ở phía Tây, Tây Nam của Việt Nam. Dãy núi này có độ cao trung bình từ 500 đến 1.000m, với một số đỉnh cao như Đông Ngại (1.774m), núi Mang (1.702m). Trường Sơn Nam có đặc điểm địa lý tự nhiên đa dạng, tương phản và độc đáo, ảnh hưởng quyết định đến sự tiến hóa tự nhiên, chế độ khí hậu – thủy văn, thực vật và động vật của khu vực.
Trường Sơn Nam là ranh giới tự nhiên của khí hậu nhiệt đới ẩm chuyển tiếp hai miền Nam – Bắc Việt Nam cũng như Đông – Tây Trường Sơn. Ở đây hình thành chế độ khí hậu rất đặc biệt, vừa mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa miền Bắc với mùa đông lạnh, vừa thể hiện khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình của miền Nam. Trong đó, tương tác giữa gió mùa đông Đông Bắc và gió mùa hè Tây Nam với địa hình là có ảnh hưởng rõ rệt nhất đến chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa đặc biệt này.
Hệ thống thủy văn của Trường Sơn Nam cũng rất phong phú và phức tạp. Các sông suối xuất phát từ sườn Đông Trường Sơn, chủ yếu chảy qua địa hình dốc và cấu tạo từ đá cứng nên thường ngắn, dốc và nhiều thác ghềnh. Chế độ thủy văn cùng với lượng mưa lớn và tập trung vào mùa mưa là nguyên nhân gây ra nhiều lũ lụt lớn gây tai họa cho cư dân và môi trường về mùa mưa lũ và thiếu nước trong mùa khô cho sản xuất và đời sống.
Tài nguyên rừng Trường Sơn Nam phong phú và quý giá, chiếm khoảng 60% diện tích tự nhiên của khu vực. Rừng Trường Sơn Nam có tính chất sinh thái rất phong phú, là nơi sinh sống của nhiều loài thực vật và động vật quý hiếm và được ghi trong sách đỏ. Tài nguyên rừng không chỉ là nguồn cung cấp gỗ, các sản phẩm lâm nghiệp khác, mà còn có vai trò quan trọng trong bảo vệ nguồn nước, ổn định khí hậu, duy trì sự cân bằng sinh thái và bảo tồn nguồn gen.
Trường Sơn Nam cũng có tài nguyên khoáng sản khá phong phú và có tiềm năng khai thác. Các loại khoáng sản chính ở đây là than đá, quặng sắt, quặng thiếc, quặng đồng, quặng bô xít, đá vôi, đá ốp lát, cát sét… Ngoài ra, Trường Sơn Nam còn có nguồn nước khoáng và than bùn có giá trị y tế và du lịch.
Đặc điểm kinh tế – xã hội của Trường Sơn Nam cũng phản ánh sự ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên. Khu vực có nền kinh tế chủ yếu dựa vào lâm nghiệp, nông nghiệp và khai thác khoáng sản. Các ngành công nghiệp chế biến, dịch vụ và du lịch còn phát triển chưa đồng đều và chưa khai thác hết tiềm năng. Đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn do thiếu hạ tầng giao thông, y tế, giáo dục và dịch vụ. Khu vực này cũng có đặc điểm văn hóa đa dạng và phong phú, là nơi sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Thái, Mường, Bru – Vân Kiều… Các dân tộc ở vùng núi Trường Sơn Nam có những nét văn hóa truyền thống riêng biệt và độc đáo, góp phần làm phong phú bản sắc văn hóa Việt Nam.