Yếu tố tự sự và miêu tả trong văn nghị luận giúp cho việc trình bày luận cứ trong bài văn được rõ ràng, cụ thể, sinh động hơn, có sức thuyết phục, mạnh mẽ hơn. Dưới đây là mẫu Soạn bài Tìm hiểu yếu tố tự sự, miêu tả trong văn nghị luận.
1. Trước khi đọc văn bản:
Yếu tố tự sự và miêu tả là một khái niệm quan trọng trong văn nghị luận, đặc biệt là khi viết về các chủ đề cá nhân, xã hội hoặc lịch sử. Yếu tố tự sự là những phần của văn bản mà tác giả thể hiện quan điểm, cảm xúc, kinh nghiệm hoặc suy nghĩ của mình về chủ đề. Miêu tả là những phần của văn bản mà tác giả sử dụng ngôn ngữ sinh động, chi tiết và hình ảnh để tạo ra một bức tranh sống động trong tâm trí người đọc. Cả hai yếu tố này đều có thể làm cho văn bản trở nên thuyết phục, hấp dẫn và có tính nhân văn hơn.
Tuy nhiên, việc sử dụng yếu tố tự sự và miêu tả cũng cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, vì quá nhiều hoặc quá ít đều có thể làm mất đi tính khách quan, logic và khoa học của văn nghị luận. Một số nguyên tắc cơ bản khi sử dụng yếu tố tự sự và miêu tả trong văn nghị luận là:
– Phải phù hợp với mục đích, đối tượng và phạm vi của bài viết. Không nên sử dụng yếu tố tự sự và miêu tả khi viết về các chủ đề chuyên môn, khoa học hoặc mang tính chất khẳng định. Ngược lại, có thể sử dụng yếu tố tự sự và miêu tả khi viết về các chủ đề mang tính chất tham luận, phản biện hoặc trải nghiệm cá nhân.
– Phải có sự cân bằng giữa yếu tố tự sự và miêu tả với các yếu tố khác như lập luận, bằng chứng, phân tích hoặc so sánh. Không nên để yếu tố tự sự và miêu tả chiếm ưu thế hoặc bị lấn át trong văn bản. Cần phải có sự liên kết chặt chẽ giữa yếu tố tự sự và miêu tả với luận điểm chính của bài viết.
– Phải trung thực, chân thực và khách quan khi sử dụng yếu tố tự sự và miêu tả. Không nên sử dụng yếu tố tự sự và miêu tả để biện minh cho những quan điểm sai lầm, thiên vị hoặc không có cơ sở. Cũng không nên sử dụng yếu tố tự sự và miêu tả để xuyên tạc, làm méo mó hoặc gây hiểu lầm cho người đọc.
Như vậy, yếu tố tự sự và miêu tả là một công cụ hữu ích để làm giàu cho văn nghị luận, nhưng cũng cần phải được sử dụng một cách có chọn lọc, có điều tiết và có trách nhiệm.
2. Trong khi đọc văn bản:
Câu hỏi 1 (SGK, trang 113, Ngữ Văn 8, tập 2)
Đọc các đoạn văn sau và trả lời câu hỏi
a) Sau nữa, việc săn bắt thứ “vật liệu biết nói” đó, mà lúc bấy giờ người ta gọi là “chế độ lính tình nguyện” (danh từ mỉa mai một cách ghê tởm) đã gây ra những vụ nhũng lạm hết sức trắng trợn. (in đậm: vật liệu biết nói)
Đây! Chế độ lính tình nguyện ấy được tiến hành như thế này: Vị “chúa tỉnh” – mỗi viên công sứ ở Đông Dương quả là một vị “chúa tỉnh” – ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền, trong một thời hạn nhất định phải nộp cho đủ một số người nhất định. Bằng cách nào, điều đó không quan trọng. Các quan cứ liệu mà xoay xở. Mà cái ngón xoay xở […] thì các ông tướng ấy thạo hết chỗ nói, nhất là xoay xở làm tiền.
Thoạt tiên, chúng tóm những người khỏe mạnh, nghèo khổ, những người này phải chịu chết thôi nhưng không còn kêu cứu vào đâu được. Sau đó, chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường: “đi lính tình nguyện, hoặc xì tiền ra”.
(Nguyễn Ái Quốc, Thuế máu)
b) Ấy thế mà trong một bản bố cáo với những người bị bắt lính, phủ toàn quyền Đông Dương, sau khi hứa hẹn ban phẩm hàm cho những người lính sẽ còn sống sót và truy tặng những người sẽ hi sinh “cho Tổ quốc”, đã trịnh trọng tuyên bố rằng:
“Các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao triều mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ”. (in đậm: tấp nập; không ngần ngại)
Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính đến thế, tại sao lại có cảnh, tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh lị, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn? Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hoà và ở nhiều nơi khác nữa, phải chăng là những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân “tấp nập” và “không ngần ngại”?
(Nguyễn Ái Quốc, Thuế máu)
Câu hỏi:
– Vì sao đoạn trích (a) có yếu tố tự sự nhưng không phải là văn bản tự sự, còn đoạn trích (b) có yếu tố miêu tả nhưng không phải là văn bản miêu tả?
– Giả sử đoạn trích (a) không có những chi tiết cụ thể kể lại một kiểu bắt lính kì quặc và tàn ác, liệu ta có thể lường hết được việc mộ lính “tình nguyện” đã gây ra sự nhũng lạm trắng trợn đến mức nào không? Còn ở đoạn trích (b) nếu thiếu những dòng miêu tả sinh động về những người lính Việt Nam bị xích tay, hay bị nhốt trong trường học, “có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn” thì ta có hình dung rõ sự giả dối, lừa gạt trong lời rêu rao về “lòng sốt sắng đầu quân tấp nập và không ngần ngại” được không?
– Từ việc tìm hiểu trên, em có nhận xét gì về vai trò của các yếu tố tự sự và miêu tả trong văn nghị luận?
Lời giải chi tiết:
– Đoạn trích (a) và Đoạn trích (b) sử dụng yếu tố miêu tả, trần thuật nhưng đều là văn bản nghị luận. Mục đích của cả hai đoạn trích đều nhằm tố cáo, vạch trần tội ác của thực dân Pháp.
– Nếu không có những chi tiết cụ thể về sự kiện bắt lính ở đoạn (a), người đọc sẽ không thể tưởng tượng được rằng việc mộ lính tình nguyện lại diễn ra một cách rõ ràng và tinh vi như vậy.
– Nếu đoạn (b) không có dòng mô tả những người lính Việt Nam bị còng tay và nhốt trong trường học thì người đọc sẽ không thể tưởng tượng được thảm kịch của những người lính, và văn bản mất đi sự sống động vốn có.
⇒ Yếu tố trần thuật, mô tả giúp bài viết nghị luận rõ ràng, cụ thể và thuyết phục hơn.
Câu hỏi 2 (SGK, trang 114, Ngữ Văn 8, tập hai)
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi.
Các dân tộc anh em trên đất nước chúng ta đã sáng tạo ra muôn vàn truyện anh hùng đẹp. Có truyện đã trở thành trường ca lớn, như Đam Săn, Xinh Nhã v.v… riêng Chàng Trăng của dân tộc Mơ-Nông và Nàng Han của dân tộc Thái là hai truyện có nhiều nét rất giống với truyện Thánh Gióng ở miền xuôi.
Mẹ chàng trăng đã nằm mơ thấy một con thỏ trắng nhảy qua ngực mà thụ thai đẻ ra chàng. Sợ tù trưởng phạt vạ, mẹ chàng bỏ chàng trên rừng, phó mặc cho trời đất. Suốt ngày chàng không nói, không cười, chỉ thích chơi khiên đao. Sau đó, chàng cưỡi ngựa đá khổng lồ do trời đất cho, đi giết một tên bạo chúa đến chiếm đất rồi cuối cùng biến vào một mặt trăng để đêm đêm soi xuống dòng thác Pông-gơ-nhi những vầng sáng bạc.
Còn nàng Han là một cô gái thông minh dũng cảm, lớn lên đi đánh giặc ngoại xâm. Quân nàng liên kết với người Kinh, theo cờ lệnh bằng chăn dệt chỉ ngũ sắc của nàng mà đánh tan được giặc. Mường bản đang vui thắng trận thì nàng hóa thành tiên lên trời, sau khi tắm ở sông Nậm Bờ, để lại trên bờ thanh gươm nàng đã dùng diệt giặc. Từ đấy, hằng năm đến ngày nàng lên trời, dân bản mường lại mở hội rước cờ nàng Han, vui chơi rồi kéo ra sông Nậm Bờ tắm. Và trên dãy núi Pu-keo vẫn còn đền thờ nàng Han ở chân rừng, gần đấy có những vũng, những ao chi chít nối tiếp nhau là vết chân voi ngựa của quân nàng Han và quân đội của người Kinh.
So sánh với những truyện nói trên, chúng ta thấy truyện Thánh Gióng thực sự là một bản anh hùng ca và là anh hùng ca của người Việt cổ.
(Theo Cao Huy Đỉnh, Người anh hùng làng Gióng)
Câu hỏi:
a) Tìm những yếu tố tự sự, miêu tả trong văn bản trên và cho biết tác dụng của chúng.
b) Vì sao tác giả văn bản trên đã không kể lại đầy đủ và cặn kẽ toàn bộ hai truyện Chàng Trăng và Nàng Han, mà chỉ tả cụ thể một số hình ảnh và kể kĩ một số chi tiết trong những câu chuyện ấy?
Lời giải chi tiết:
a) Yếu tố miêu tả, tự sự được sử dụng trong đoạn văn trên:
– Yếu tố tự sự:
+ Kể về câu chuyện ‘chàng trăng’ của dân tộc M’nông (mẹ của chằng nằm mơ thấy Thỏ Trắng nhảy qua ngực mình sinh ra chàng, rồi sau đó chàng giết tên bạo chúa rồi biến mất vào cung trăng).
+ Câu chuyện ‘nàng Han’ của người dân tộc Thái (người được cho là đã đánh bại giặc ngoại xâm và trở về trời).
– Yếu tố mô tả:
+ Mơ thấy một con thỏ trắng nhảy qua ngực.
+ Chàng trai không nói, không cười, chỉ thích nghịch kiếm và khiên.
+ Thác Pông gơ ni với vầng hào quang màu bạc.
+ Cờ lệnh được làm bằng chăn dệt năm màu.
+ Các vũng nước và ao đầy những dấu chân của voi và ngựa của nàng.
b) Các yếu tố trần thuật, mô tả chỉ là yếu tố phụ, không thể hiện được mục đích chính của văn bản.
Câu hỏi 3 (SGK, trang 114, Ngữ Văn 8, tập hai)
Từ việc tìm hiểu trên, hãy cho biết: Khi đưa các yếu tố tự sự và miêu tả vào bài văn nghị luận, cần chú ý những gì?
Lời giải chi tiết:
Tránh sử dụng quá nhiều yếu tố mô tả hoặc tường thuật trong văn bản nghị luận. Mô tả và tự sự chỉ nhằm mục đích làm rõ và nhấn mạnh một lập luận trong văn bản nghị nghịluaanj.
3. Sau khi đọc văn bản:
Câu hỏi 1 (SGK, trang 116, Ngữ Văn 8, tập hai)
Chỉ ra các yếu tố tự sự và miêu tả trong đoạn văn nghị luận dưới đây và cho biết tác dụng của chúng.
Sắp Trung thu. Trời xứ Bắc hẳn trong, trăng hẳn tròn và sáng. Đêm trước rằm đầu tiên từ ngày bị giam giữ. Mười mấy ngày qua, trừ cái bực mình ban đầu khi bị bắt vô cớ, cái khẳng định mình vẫn là khách tự do, chỉ là một xâu những sự vật lỉnh kỉnh, lích kích đáng lạ, đáng cười, đáng ghét của bộ mặt nhà giam. Bỗng đêm nay trăng sáng quá chừng. Trong suốt, bao la, huyền ảo, vỗ về. Ngay bên cửa sổ, lồng trong bóng cây. Đêm nay rất đẹp. Trong lòng rạo rực bao nỗi niềm. Cầm lòng không đậu, người tù phải thốt lên:
“Đối thử lương tiêu nại nhược hà”
(Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ)
[…] Vậy trước cảnh đẹp đêm nay, trước cái đẹp đêm lành này (đối thử lương tiêu), biết làm sao bây giờ (nại nhược hà)? Một câu hỏi hay một câu than đều có nghĩa. Nó là dấu hiệu của một tâm trạng dạt dào nên sinh băn khoăn. Hơn nữa, bối rối, xao xuyến. Nó ăm ắp tình tứ, nó rạo rực, nó muốn yêu, muốn thưởng thức, muốn chan hòa, muốn giãi bày, bộc lộ. Phải đi ra với đêm, phải tắm mình trong nguyệt, phải vui, phải làm thơ. Tâm trạng người tù như vậy nhưng người tù đành như phải làm lơ. Như đành để mặc cho đêm đẹp đêm lành, cho trăng mời trăng giục. Nghĩa là bao nhiêu dạt dào trước trăng trước đêm, trước cái đẹp cái lành, phải ẩn vào bên trong, vùi vào im lặng.
(Lê Trí Viễn, Một số bài giảng thơ văn Chủ tịch Hồ Chí Minh)
Lời giải chi tiết
– Yếu tố tự sự: ‘Đêm nay rất đẹp’, ‘Sắp trung thu’, ‘mười mấy ngày qua’
– Yếu tố mô tả:
+ Trời xứ bắc hẳn đang trong, trăng hẳn sáng và tròn, bỗng đêm nay trăng lại sáng quá chừng. Trong suốt, huyền ảo, bao la, vỗ về.
+ Ngay bên khung cửa sổ, lồng trong những bóng cây. Nó tình tứ, ăm sắp, rạo rực, nó muốn yêu, muốn chan hòa, muốn thưởng thức, muốn giãi bày, muốn bộc lộ.
+ Như đành để mặc cho đêm lành, đêm đẹp cho trăng mời trăng giục.
– Tác dụng: Người đọc sẽ hiểu sâu sắc hơn hoàn cảnh sáng tác bài thơ và tâm trạng của nhà thơ trong đêm trăng.
Câu hỏi 2 (SGK, trang 116, Ngữ Văn 8, tập hai)
Nếu viết bài tập làm văn theo đề bài “Nêu ý kiến của em về vẻ đẹp của bài ca dao Trong đầm gì đẹp bằng sen” thì em có cần vận dụng các yếu tố tự sự và miêu tả vào bài làm không? Vì sao?
Lời giải chi tiết:
– Bạn nên sử dụng các yếu tố miêu tả để bài viết của bạn hay hơn, mang tính miêu tả hơn.
– Ứng dụng này giúp lý giải và nêu bật vẻ đẹp của hoa sen, ao sen, kết hợp với yếu tố tự sự giúp tác giả dễ dàng tương tác, bày tỏ tình cảm với người đọc về kỷ niệm riêng với hoa sen.