Để chuẩn bị cho tiết học văn lý thú và hấp dẫn, học sinh cần có sự chuẩn bị kĩ lưỡng trước, tìm hiểu thông tin cơ bản về tác phẩm, bởi vậy hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về bài soạn "Lưu biệt khi xuất dương" ngắn gọn nhất qua bài viết dưới đây nhé
Mục lục bài viết
1. Hoàn cảnh sáng tác:
Năm 1905, trước khi lên đường sang Nhật, Phan Bội Châu làm bài thơ này để tiễn bạn bè, đồng chí. Lúc này đất nước đã mất chủ quyền, tiếng mõ Cần Vương đã tắt. Tình hình đó đặt ra trước mắt những người yêu nước một câu hỏi lớn và day dứt: cứu nước bằng cách nào? Bài thơ được sáng tác năm 1905, trước khi tác giả sang Nhật Bản tìm con đường cứu nước mới, Người viết bài thơ này để tiễn biệt bạn bè, đồng chí.
2. Tư duy mới mẻ và khát vọng cứu nước được thể hiện bằng cách nào:
Tư duy mới mẻ, táo bạo và khát vọng hành động của một đồng chí cách mạng khi ra đi tìm đường cứu nước được thể hiện như sau:
– Một quan niệm mới về ý chí con người và tầm vóc của con người trong vũ trụ: đó là biết sống vì những điều phi thường, vẻ vang, dám thực hiện những mưu đồ kinh thiên động địa.
– Ý thức trách nhiệm cá nhân trước thời đại: con người dám đối mặt với thế giới và vũ trụ để khẳng định mình.
-Thái độ kiên quyết trước hoàn cảnh đất nước và niềm tin xưa: Niềm háo hức của người ra đi thể hiện ở khát vọng vượt sóng dài, bão táp trên biển rộng để thực hiện lý tưởng cách mạng.
– Trước hết, câu thơ vẫn nói đến nước Nam, một quan niệm sống phổ biến trong thời phong kiến: kẻ sĩ thì phải làm rạng danh thiên hạ, phải được “Lạ” trong đời.
Nhưng theo quan điểm của chúng tôi, cụ Phan đã có một quan điểm mới, sáng tạo hơn: “Há để càn khôn tự chuyển dời”
+ Xưa nay con người đặt cuộc đời mình vào hai chữ số mệnh, đời người là do trời định.
+ Nhưng cụ Phan là trai thì có sao, cụ phải chủ động lật ngược tình thế (đặt trong hoàn cảnh lúc bấy giờ câu thơ hàm ý tìm đường cứu nước).
+ Kiểu câu hỏi tu từ khiến câu thơ đi sâu và vào tâm trí người đọc, đặc biệt là nam nhi.
3. Lời dịch của câu 6 và câu 8 đã sát nghĩa chưa?
Bản dịch hai câu 6 và 8 so với nguyên tác có phần hơi mập mờ, cụ thể:
– Câu 6: Câu thơ được dịch là học chỉ thể hiện được sự tiêu cực chứ chưa thể hiện được tư thế và khí phách táo bạo, dứt khoát của tác giả.
-Câu 8: Câu thơ dịch không diễn tả rõ tư thế và khí thế mạnh mẽ, bay bổng như trong nguyên tác: “Nhất Tề Phi” – “Cùng nhau bay”.
4. Yếu tố tạo nên sự lôi cuốn của bài thơ:
Yếu tố tạo nên sức hấp dẫn mạnh mẽ của bài thơ là:
– Thể thơ thất ngôn bát cú đường luật.
– Hình ảnh sống động và sức truyền tải cao.
– Bài thơ có giọng điệu rất độc đáo: háo hức, rạo rực.
– Ngôn ngữ thơ giản dị nhưng có sức lay động mạnh mẽ.
– Nội dung chính của bài: Nam nhi gắn với hoàn cảnh đất nước hiện tại:
+ Hiện lên trong bài thơ là nỗi đau mất nước, nỗi tủi nhục thân phận nô lệ và sự phản kháng ngấm ngầm, không muốn chấp nhận (thà sống tủi nhục).
+ Yêu nước là tư tưởng đạo đức của Nho giáo, nhưng bây giờ, những bậc trung vương còn đâu, những bậc thánh nhân lưu sách trong thời loạn còn đâu, câu tục ngữ này đã thức tỉnh những hành động thiết thực và nhân ái.
– Với bản lĩnh táo bạo của một nhà cách mạng đi trước thời đại, Phan Bội Châu đã đương đầu, trực diện với nền giáo dục cũ, thức tỉnh các sĩ phu yêu nước.
5. Tác giả và tác phẩm:
5.1. Tác giả:
Tác giả Phan Bội Châu (1867-1940), hiệu là Sào Nam. Ông sinh ra và lớn lên tại Làng Đan Nhiễm nay thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Quá trình hoạt động kháng chiến:
– Đỗ “giải Nguyên một mình” năm 1900, học giỏi nhưng không ai ra làm quan, mà nung nấu con đường cứu nước theo tư tưởng duy tân.
– Là người lãnh đạo các phong trào: Duy Tân, Đông Du, Việt Nam Quang Phục Hội.
– Từ 1905 đến 1925: Người ra nước ngoài tìm cách khôi phục đất nước nhưng không thành công.
– 1925: Bị bắt ở Thượng Hải và bị giam ở Huế cho đến cuối đời.
Phong cách nghệ thuật:
– Văn, thơ Phan Bội Châu tuy có hình thức cổ điển nhưng vẫn tươi mới vì có nội dung tuyên truyền, cổ động cách mạng; khuấy động những trái tim yêu nước bằng những vần thơ sục sôi, thiết tha.
Trong những thập niên đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu được coi là cây bút xuất sắc của thơ văn cách mạng.
Tác phẩm chính: Việt Nam vong quốc sử, Hải ngoại huyết thư, Trung thu án, Trùng Quang tâm sử, Phan Sào Nam Văn Tập, Phan Bội Châu niên biểu,….
5.2. Tác phẩm:
Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được sáng tác năm 1905, trước khi tác giả sang Nhật tìm con đường cứu nước mới, ông làm bài thơ này để tiễn biệt bạn bè, đồng chí.
Thể loại: Thất ngôn bát cú Đường luật.
Biểu cảm: Biểu cảm.
Ý nghĩa nhan đề:
– Xuất dương: Vượt biển ra nước ngoài
Vĩnh biệt: Bài thơ đánh dấu sự ra đi của một người nào đó.
Bố cục: 4 đoạn
– Phần 1 (2 câu): Quan niệm mới về bản lĩnh và tầm vóc của con người trong vũ trụ.
– Phần 2 (2 câu thực): Ý thức bản thân phải chịu trách nhiệm trước thời đại.
– Phần 3 (2 câu): Nhận rõ nỗi nhục mất nước, sự lạc hậu của nền giáo dục cũ.
– Phần 4 (2 câu): Nhiệt huyết khao khát, dấn thân trên con đường cứu nước.
Giá trị nội dung: Đoạn thơ khắc họa vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng của người chí sĩ cách mạng những năm đầu thế kỷ XX với những tư tưởng mới táo bạo, nhiệt huyết sôi nổi và khát vọng cháy bỏng thuở ban đầu. Tìm cách cứu nước.
Giá trị nghệ thuật: Giọng thơ thiết tha có sức lay động mạnh mẽ, chất lãng mạn toát lên từ nhiệt tình cách mạng sục sôi của nhà thơ.
6. Phân tích Lưu biệt khi xuất dương hay nhất:
Sau khi tham gia thành lập Duy Tân hội, đầu năm 1905, theo chủ trương của tổ chức, Phan Bội Châu nhận nhiệm vụ sang Trung Quốc rồi Nhật Bản, khởi xướng phong trào Đông Du, lập cơ sở đào luyện cốt cán cho cách mạng trong nước và nhờ Nhật giúp Việt Nam đánh Pháp. Lúc này đất nước đã mất chủ quyền. Ngọn lửa của phong trào Cần Vương bị dập tắt báo hiệu sự bế tắc của con đường cứu nước dưới thời đại phong kiến do những người lỗi lạc lãnh đạo. Thời thế thay đổi đòi hỏi phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc phải có phương hướng, nội dung và hình thức hoạt động mới. Phan Bội Châu lúc này còn khá trẻ (38 tuổi), là hình ảnh tiêu biểu của thế hệ cách mạng mới, quyết vượt lên chính mình, vượt qua những giáo điều lỗi thời của Nho giáo để tiếp nhận luồng tư tưởng tiên phong. Trong giai đoạn này, chúng tôi hy vọng sẽ tìm ra một hướng đi mới cho công cuộc khôi phục đất nước. Phong trào Đông Du được nhen nhóm với bao hy vọng. Lời chia tay khi ra nước ngoài được viết ra trong bữa cơm Tết mà Phan Bội Châu tổ chức tại nhà riêng để chia tay các đồng chí trước khi lên đường.
Phan Bội Châu tuy có tài văn chương lỗi lạc nhưng chưa bao giờ coi văn chương là cứu cánh của đời mình. Bác chỉ muốn dùng nó để động viên nhân dân (nhất là lớp trẻ) vùng lên làm cách mạng, cứu nước, cứu dân. Với định hướng này, sáng tác của anh mang âm hưởng kích thích, khiến người đọc một khi tiếp xúc sẽ không thể ngồi yên. Chia tay khi xuống trần gian là một ví dụ điển hình.
Bài thơ không nên bắt đầu bằng cảm xúc hoài cổ, nhớ nhung. Tiết lộ là lý do và hoài bão của một người quyết tâm xoay chuyển tình thế và sự vật:
Sinh vi nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
(Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.)
Ở đây, bản thân bài thơ là một lời cảnh báo, một tiếng động viên. Nhà thơ hiểu rằng hơn bao giờ hết, người ở lại và người ra đi đều cần có một niềm tin, nếu không phải ở kết quả hành động của mình thì cũng là ở sự đúng đắn của hành động mình đã lựa chọn. Quan niệm về ý chí khi chết của các nhà Nho xưa đã được nhắc lại trên tinh thần này. Không thể nói rằng điều nhà thơ nói trong hai câu thơ là hoàn toàn mới. Trước cụ Phan Bội Châu, nhiều bậc hiền triết đã nói về chí làm trai với nhiệt huyết cháy bỏng và bằng một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng. Ngay câu thơ đầu tiên của Phan Bội Châu, có thể nói, cũng xuất phát từ hai câu chữ Hán đầu bài Chí Nam sơn của Nguyễn Công Trứ: “Thiên hạ đệ nhất hùng quan” (Người thông minh ắt có tài) làm những việc khiến mọi người cảm thấy kỳ lạ). Vì vậy, câu hỏi ở đây không phải là về tính độc đáo của suy nghĩ mà là về mục đích thể hiện ý tưởng trong một tình huống cụ thể. Nhắc đến niềm tin của những trang nam nhi bất diệt, thực ra Phan Bội Châu đang muốn nhắn nhủ và tự hỏi mình: Trời đất có tự xoay chuyển được không, mà mình là người ngoài cuộc, vô tội ? Đó là một câu hỏi, nhưng nó cũng là một câu trả lời. Tính hai mặt này của bài thơ ngay từ đầu đã tạo cho bài thơ một không khí dồn nén, khẩn trương. Từng chữ, từng chữ cứ quấn lấy tâm trí người đọc, khiến họ không tránh khỏi vấn đề được nhà thơ đặt ra một cách say mê.
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thuỳ.
(Trong khoang trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai?)
Câu trước không chỉ khẳng định sự tồn tại của nhân vật trữ tình trên đời, mà còn chứa đựng một tư tưởng: sự tồn tại của chúng ta không phải là một sự kiện ngẫu nhiên, vô ích, và do đó chúng ta phải làm được một cái gì đó có ý nghĩa trong cuộc sống. Câu sau có thể diễn đạt đại ý: Nghìn năm sau, chẳng lẽ không tiếp tục việc của người trước? Như vậy, hai câu 3 – 4 đã thể hiện rõ cái tôi đầy trách nhiệm của nhà thơ: thấy việc không thể không làm, không lệ thuộc vào ai. Hơn nữa, nó thấy rõ lịch sử là một dòng chảy liên tục, có sự tham gia và chịu trách nhiệm của nhiều thế hệ. Đây có thể coi là một nét mới trong tư tưởng của Phan Bội Châu so với nhiều bậc tiền bối coi lịch sử là một vòng tuần hoàn khép kín, khi sự nghiệp không thành thì dễ rơi vào tuyệt vọng. Tác giả hoàn toàn thấy trước tính chất khó khăn của sự nghiệp cứu nước mà Người đảm nhận, nhưng linh cảm đó không làm Người nao núng. Anh ấy sẵn sàng tin tưởng không chỉ vào bản thân mà còn vào những người theo sau anh ấy. Đó là suy nghĩ và tính cách của anh ấy. Tôi mới hiểu vì sao sau này, khi kiểm điểm lại cuộc đời mình, dù cay đắng cho mình, Phan Bội Châu vẫn có những lời rất vô tư và nhân hậu: “Xin phường tương lai mau tiến lên!”. (Vĩnh biệt bạn bè lần cuối – 1940).
Bốn dòng đầu của bài thơ nghiêng về nói về nỗi niềm chung của đàn ông, tuy đọc qua nhưng người đọc vẫn nhận ra sự bức bối trong tâm trạng của tác giả. Sang câu 5-6, nỗi bức xúc đó được thể hiện trực tiếp hơn, qua việc nhà thơ nhắc đến tình cảnh éo le của cuộc sống lúc bấy giờ:
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si!
(Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!)
Như vậy, bối cảnh vũ trụ không phải là hiện tượng cá biệt trong một số bài thơ, bởi con người trong thơ cổ về cơ bản không phải là con người cá nhân mà là con người vũ trụ. Tuy nhiên, trong trường hợp Vĩnh biệt khi xuất dương, vẫn có thể nói bối cảnh đó có tác dụng làm nổi bật phẩm chất độc đáo, nổi bật của nhân vật trữ tình: tự tin, dám đối thoại với trời đất; nhận thức về vinh dự và xấu hổ trong cuộc sống; có khát vọng khẳng định cái tôi trong hành động dấn thân với đất nước, với dân tộc,… Tóm lại, chỉ trong hoàn cảnh ấy, “trời biển” của nhà thơ mới được khắc họa một cách ấn tượng như vậy.
Chia tay khi ra nước ngoài là thơ tiễn biệt nhưng cũng là lời tiễn biệt. Điều đó hoàn toàn tương xứng với tầm vóc của một con người được cả dân tộc ngưỡng mộ, tin tưởng vào thời khắc lịch sử ấy.