Quần thể ao Bà Om, chùa Âng và Bảo tàng văn hóa Khmer ở thành phố Trà Vinh là di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Sau đây là các mẫu thuyết minh về Ao Bà Om Trà Vinh chọn lọc hay nhất.
Mục lục bài viết
1. Thuyết minh về Ao Bà Om Trà Vinh chọn lọc hay nhất:
Nhắc đến Trà Vinh, người ta nghĩ đến vùng đất chùa Khmer cổ và những di tích lịch sử mang nhiều truyền thuyết, truyền thuyết, gắn liền với hành trình khai phá, xây dựng phương Nam. Di tích ao Bà Om nghìn năm tuổi là một trong những niềm tự hào của người dân nơi đây.
Ao Bà Om hay còn gọi là Ao Vuông nằm cạnh Quốc lộ 53, hướng vào 8, thành phố Trà Vinh (trước đây là thôn Tà Cú, xã Nguyệt Hòa, huyện Châu Thành), cách trung tâm thành phố Trà Vinh khoảng 5 km về phía Tây. Theo truyền thuyết xa xưa, ở vùng đất Trà Vinh hàng năm vào mùa hạn hán, nước ngọt khan hiếm, đồng ruộng khô cằn, cây cối chết khô, người dân trong vùng vì hạn hán lâm vào cảnh khốn cùng. Để cứu dân khỏi đói nghèo, một ông hoàng trong vùng đã tập hợp người dân đào ao để tìm nguồn nước. Nhân tiện, trong vùng lúc đó cũng xảy ra tranh chấp gay gắt giữa nam và nữ, ai lấy ai, ai chịu mọi chi phí cho lễ cưới? Nhân dịp này, ông hoàng chia thành hai bên, một nam một nữ, tổ chức thi đào ao. Bên nào đào sâu hơn, lớn hơn và về đích trước sẽ thắng, bên thua sẽ phải lấy vợ.
Phía nam đào ao tròn ở phía tây và phía nữ đào ao vuông ở phía đông. Bên nữ do bà Om, một phụ nữ Khmer dẫn đầu, thấy sức mình không chịu nổi sức đàn ông nên đã dùng kế là vừa hát vừa nhảy để các chàng bỏ công việc của họ mà chạy đến xem. Nửa đêm, bà Om chặt một cây tre rất dài, treo đèn lồng rồi đặt ở hướng Đông. Theo lời hẹn, khi sao mai mọc thì họ phải ngừng làm việc, khi bên nam nhìn thấy ngọn đèn tưởng là sao mai, họ rủ nhau đi nghỉ. Trong khi đó, phía nữ đào đến sáng và hoàn thành công việc trước. Để tỏ lòng biết ơn người phụ nữ thông thái, người ta đã đặt tên ao theo tên bà, từ đó ao phụ nữ đào có tên là ao Bà Om. Và tục lệ nam lấy vợ, con cái phải mang họ mẹ ở đồng bào Khmer cũng bắt đầu từ đây. Mãi đến sau này khi người Pháp cai trị nước ta, người con mới mang họ cha.
Cũng giải thích về tên ao Bà Om, còn có một câu chuyện khác: Ngày xưa có một vị hoàng tử rất độc ác, chiếm đất Trà Vinh, bắt dân phải gả cho mình những cô gái xinh đẹp, ai không vâng lời sẽ bị trừng phạt. Vị hoàng tử này bắt phụ nữ phải mang lễ vật cho đàn ông. Một ngày nọ, một cô gái xinh đẹp đến gặp hoàng tử để phản đối phong tục vô lý này. Bị thu hút bởi vẻ đẹp của cô gái, hoàng tử muốn lấy lòng người đẹp, đồng thời muốn xóa bỏ tục lệ của mình bằng cách mở cuộc thi đào ao. Sau đó mọi chuyện diễn ra như mô tả ở trên.
Theo các nhà sử học và nghiên cứu văn học dân gian, có khoảng 10 phiên bản giải thích tên địa danh ao Bà Om, bao gồm đủ các thể loại truyện dân gian như truyện cổ tích, truyện dân gian, truyền thuyết, truyện ngụ ngôn. Có thể nói đây là trường hợp đặt tên địa danh mang tính giả thuyết nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Về nội dung, hầu hết các truyện đều xoay quanh 3 chủ đề chính: Giải thích tên Ao Bà Om, giải thích vì sao đàn ông lấy vợ và tại sao người Khmer lại có tục theo họ mẹ? Các câu chuyện đều là sản phẩm của trí tưởng tượng mang đậm dấu ấn văn hóa của đồng bào Khmer Nam Bộ.
Bên cạnh ao là chùa Âng, một trong những ngôi chùa Khmer cổ nhất ở Trà Vinh được xây dựng từ năm 990 và Bảo tàng Văn hóa Khmer cũng nằm ở đây.
Ấn tượng đầu tiên khi đến thăm ao Bà Om là cảm giác mát lạnh trước bầu trời trong xanh và mặt nước. Ao có hình chữ nhật, rộng 300m, dài 500m (vì gần hình vuông nên còn gọi là Ao Vuông) du khách sẽ ngạc nhiên vì ao quá lớn nên gọi là hồ.
Bao quanh bờ ao là những cánh rừng cổ thụ, hàng trăm năm tuổi, có bộ rễ xù xì nhô lên khỏi mặt đất đến một mét tạo thành những hình thù kỳ lạ, tạo nên bầu không khí u ám, tưởng chừng thời gian yên bình, tĩnh lặng.
Có những chiếc rễ lớn đến mức có thể tạo thành một hang động độc đáo và trẻ em có thể vui chơi. Một bộ rễ cây khác lại trở thành chỗ ngồi cho khách nghỉ ngơi. Người dân bản địa giải thích, rễ cây đồ sộ, quấn vào nhau và nằm cao so với mặt đất như ngày nay là do đất xung quanh ao bị lún thấp, rễ lộ ra và phát triển theo thời gian. Kích thước khổng lồ và hình dáng kỳ lạ của rễ cây ở ao Bà Om khiến nhiều người liên tưởng đến khu rừng cổ tích.
Nếu đúng mùa, ao còn được tô điểm bởi hoa sen hồng và hoa súng lãng mạn. Khi ánh nắng chiều buông xuống những hàng cây cao, sẫm màu, dài thì Ao Bà Om chính là địa điểm đi chơi lý tưởng nhất ở thành phố Trà Vinh. Hai bên con đường chính dẫn vào Ao Bà Om là khu “chợ trời” ẩm thực nhộn nhịp và đông đúc. Du khách có thể tản bộ ngắm cảnh và khi “thót tim” hãy dừng lại ở một gánh hàng rong, hay một quán ăn nhỏ gọn để thưởng thức những món ăn nổi tiếng của Trà Vinh như đá bào, bún nước lèo, bánh canh, bún cà ri, bánh thốt nốt…
Vào những ngày lễ, tết hàng năm của đồng bào Khmer, ao Bà Om trở thành nơi sinh hoạt cộng đồng nhộn nhịp của cả vùng, đặc biệt trong dịp Lễ hội Ok Om Bok được tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, thu hút hàng nghìn người từ khắp nơi đến đây để tham dự. Họ cùng nhau nhảy múa, xem hát… thắt chặt tình đoàn kết, hòa hợp của anh em các dân tộc vùng sông Mê Kông. Và khi màn đêm buông xuống, khu vực Ao Bà Om lung linh, huyền ảo, nhộn nhịp với Lễ hội đèn lồng gió, có rất nhiều loại đèn lồng đủ kích cỡ được thả lên trời mang theo những lời cầu nguyện, cầu mong đất trời bình yên, mùa màng bội thu, bình an và sức khỏe tốt.
Ao Bà Om được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào năm 1994. Cùng với bảo tàng văn hóa và chùa Âng, bộ 3 quần thể danh thắng này là một trong những địa điểm không thể bỏ qua khi đến Trà Vinh.
2. Thuyết minh về Ao Bà Om Trà Vinh chọn lọc ấn tượng:
Ao Bà Om là danh lam thắng cảnh nổi tiếng của tỉnh Trà Vinh cũng như vùng đồng bằng sông Cửu Long. Danh lam thắng cảnh này tọa lạc tại phường 8, thành phố Trà Vinh, cách trung tâm tỉnh hơn 5 km về phía Tây Nam và cách quốc lộ 53 hơn 500 m về phía Đông.
Toàn bộ diện tích ao Bà Om rộng hơn 300 ha, bao gồm 3 phần chính: ao, bờ ao và rừng cổ thụ bao quanh ao.
Trung tâm cảnh quan là ao nước ngọt có hình vuông nên ao Bà Om còn gọi là ao vuông, mỗi cạnh hơn 300 m, sâu từ 01 m (mùa khô) đến 02 m (mùa mưa). Có thể dễ dàng nhận ra, với trữ lượng từ 01-02 triệu mét khối, ao Bà Om là một hồ thủy lợi cổ xưa, được cộng đồng địa phương tự tay đào và lấp từ nhiều thế kỷ trước để trữ nước mưa, đảm bảo nguồn nước ngọt cho sinh hoạt của người dân và canh tác nông nghiệp trên vùng cát rộng xung quanh. Mặt ao rộng khoảng 100 ha, có nước ngọt lâu năm, là môi trường lý tưởng cho nhiều loài thực vật, động vật thủy sinh như tôm, cá, ếch nhái; sen, súng… phát triển.
Ngoài cùng là khu rừng nguyên sinh được bảo tồn khá nguyên vẹn, rộng khoảng 30-100 m, dài hơn 2 km với hàng ngàn loài thực vật đặc hữu trên đất cát, trong đó có gần 500 cây dầu cổ thụ trăm tuổi. Qua quá trình bào mòn của mưa gió, đất cát bị cuốn trôi, để lại những gốc rễ cổ thụ với những hình thù hết sức kỳ lạ, kích thích sự tò mò của du khách gần xa cũng như trí tưởng tượng của các nhà thơ, nhạc sĩ. Bên dưới những tán lá đan xen của khu rừng nguyên sinh là con đường quanh năm mát mẻ ngoằn ngoèo, quanh co, đồi dốc khiến người ta dễ liên tưởng và gọi Ao Bà Om là “Đà Lạt giữa cánh đồng”. Khoảng đệm giữa mặt ao và rừng nguyên sinh là bờ cát rộng khoảng 5 m, tạo thành một con đường đi bộ lý tưởng với chiều dài gần 2 km, giữa một bên là rừng cổ thụ và một bên là làn nước trong xanh.
Du khách có thể rời xa ồn ào, náo nhiệt nơi thành thị để tìm về Ao Bà Om với tâm hồn thư thái, hòa mình vào môi trường xanh – sạch – đẹp của một khu du lịch nổi tiếng. Dựa lưng vào những cây cổ thụ hay nằm trên bãi cỏ xanh, dưới màu xanh bạt ngàn của cây cối, nhìn ra làn nước trong xanh với những bông sen hồng đung đưa trong gió; nghe tiếng ve kêu, tiếng chim hót líu lo trên cành; hay lắng nghe nhịp tim, hơi thở hòa quyện với cây xanh, với thiên nhiên một cách thư thái, nhàn nhã.
Có rất nhiều truyền thuyết, câu chuyện khác nhau tồn tại song song để giải thích về cái tên Ao Bà Om. Đặc biệt, truyền thuyết của người dân tộc Khmer có nhiều chi tiết thú vị và được phổ biến rộng rãi. Truyền thuyết này kể rằng:
…“Trước đây, người Khmer vẫn theo chế độ mẫu hệ nên nhà gái phải xin cưới và chịu mọi chi phí đám cưới cho nhà trai. Dần dần, chế độ phụ hệ hình thành nên phong tục cưới hỏi cũng thay đổi nên nảy sinh tranh chấp về việc nhà gái hay nhà trai phải xin cưới. Để vừa giải quyết vấn đề nguồn nước đảm bảo cuộc sống, vừa giải quyết vấn đề hôn nhân và duy trì nòi giống, ông hoàng trong làng đã tổ chức cuộc thi đào ao giữa hai bên nam và nữ, với quy định cuộc thi diễn ra vào ban đêm và kết thúc khi sao mai mọc,
Các thanh niên ỷ vào mình cho khỏe mạnh nên không vội vã, chỉ uống rượu, nhảy múa đến khuya rồi ngủ thiếp đi. Những người phụ nữ dưới sự chỉ huy của bà Om biết mình yếu đuối nên động viên nhau đào xuyên đêm. Bà Om nảy ra ý định treo đèn gió lên cành cây. Khi nhìn thấy ngọn đèn gió trên ngọn cây, tưởng sao mai đã mọc nên bên nam kéo nhau đi nghỉ. Buổi sáng, ao của bên nữ vuông vắn, thẳng tắp và đầy nước, trong khi ao của nam nông, lởm chởm, không có hình thù gì.
Bên nam không có lựa chọn nào khác ngoài việc thừa nhận thất bại. Phong tục cưới hỏi truyền thống của dân tộc vẫn được duy trì và hình thành một ao nước ngọt rộng lớn giữa các cồn cát, đảm bảo cho sự sinh trưởng và phát triển của cuộc sống con người.
Để tưởng nhớ công ơn của người phụ nữ thông thái, cộng đồng các dân tộc Trà Vinh đã đặt tên cho ao của bà là Ao Bà Om.”…
Còn có truyền thuyết kể rằng trên vùng đất thấp cát pha đất thịt ở phía Tây Nam thị trấn Trà Vinh, cứ đến mùa mưa, ngò om lại mọc đầy. Người dân địa phương cùng nhau thu hoạch đem ra chợ trao đổi lúa gạo, như một nguồn lợi trời ban. Xưa, thịt bò ở Lương Hóa – Nguyệt Hóa (huyện Châu Thành) nổi tiếng gần xa bởi bò ở vùng này chỉ ăn rau mùi om. Thời Pháp thuộc, thịt bò Ba Sẻ được xếp vào loại “tam bửu Trà Vinh” (cùng với dưa hấu Ba Động và cơm Đậu Bò) và được chính quyền thực dân đưa vào hội chợ thế giới giới thiệu sản phẩm tại Marsaile (Pháp). Ao Ngộ Om dần dần biến thành Ao Bà Om…
Bất kể truyền thuyết nào, Ao Bà Om cũng là một hồ thủy lợi rộng lớn và cổ kính, được hình thành từ bàn tay và khối óc của người dân và góp phần quan trọng trong việc đảm bảo nguồn nước ngọt phục vụ sinh hoạt và sản xuất của cộng đồng các dân tộc Trà Vinh qua nhiều thế kỷ.
Với những giá trị vật chất và tinh thần to lớn đó, ao Bà Om được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia vào năm 1994.
Ao Bà Om là một trong những trung tâm chính của lễ hội Ok om bok – di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, diễn ra vào rằm tháng 10 âm lịch hàng năm. Cùng với di tích lịch sử văn hóa Chùa Ang (dạng kiến trúc nhân tạo), Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Khmer và Trung tâm Văn hóa – Thể thao tỉnh, khu vực Ao Bà Om là điểm nhấn quan trọng trong chiến lược. phát triển kinh tế du lịch Trà Vinh trong thế kỷ 21.
3. Thuyết minh về Ao Bà Om Trà Vinh chọn lọc ngắn gọn:
Trung tâm của quần thể ao Bà Om, một ao hình vuông mỗi cạnh 300 m, được bao quanh bởi một khu rừng rộng 300 ha. Ao được đào từ nhiều thế kỷ trước để làm hồ chứa nước mưa phục vụ sinh hoạt và tưới tiêu nông nghiệp. Khu rừng bên cạnh đã được bảo tồn cẩn thận, mặc dù một số cây cổ thụ hàng thế kỷ đã bị lộ rễ do xói mòn đất do gió và mưa.
Ao Bà Om được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào năm 1994. Vẻ yên bình, lãng mạn của nơi đây đã khiến ao Bà Om được mệnh danh là “Đà Lạt của đồng bằng”.
Ao Bà Om là một trong những điểm tham quan chính của tỉnh Trà Vinh, thu hút một lượng lớn khách du lịch mỗi năm. Trong lễ hội cúng trăng Ok-om-bok của người Khmer, các hoạt động như Lễ hội trang phục truyền thống được tổ chức tại ao nước đã thu hút rất đông người dân, trong đó có người Khmer và các dân tộc khác. Bên cạnh đó là Bảo tàng Văn hóa Khmer, nơi trưng bày các nông cụ Khmer cổ, nhạc cụ, trang phục hàng ngày cũng như trang phục cưới và nghi lễ.”
Phía bên kia của Bảo tàng Văn hóa Khmer là chùa Âng, điển hình của chùa Khmer ở Trà Vinh với những ngọn tháp nguy nga cao vút thẳng lên trời.
Cổng chùa Âng được chạm khắc tinh xảo với hình ảnh yêu tinh, tiên nữ, chim thánh là một phần của văn hóa Khmer. Trong chánh điện có gian rộng được trang trí bằng những con rồng mạ vàng. Bốn bức tường của chính điện mang những bức bích họa thể hiện tư tưởng Phật giáo và gợi lại cuộc đời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Phía trước chính điện là tháp chứa hài cốt của các vị trụ trì chùa. Đây là tòa tháp 5 đỉnh Khmer duy nhất ở tỉnh Trà Vinh chịu ảnh hưởng tư tưởng Hindu giáo về vũ trụ, thiên nhiên và con người.
Chùa Âng được xây dựng từ năm 990, được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1994 nhờ chứa đựng nhiều di tích quý giá. Ngôi chùa này đã được sửa chữa nhiều lần nhưng vẫn giữ được nét nguyên gốc của người Khmer. Có rất nhiều tác phẩm điêu khắc gắn liền với văn hóa Khmer như chim thánh, rồng, rắn và các nàng tiên bảo vệ chùa.
Vào mùa hè trẻ em đến chùa học tập. Các nhà sư dạy các em tiếng Bali, toán, lý, hóa và Kinh Phật của Phật giáo Nguyên thủy và phải tuân theo mọi phong tục, tập quán, kính trọng ông bà cha mẹ, chăm chỉ học tập và không làm điều xấu.
Có thể nói, quần thể ao Bà Om, chùa Áng và Bảo tàng văn hóa Khmer là nguồn tự hào của người Khmer. Hàng năm người Khmer và các dân tộc khác ở Trà Vinh và các tỉnh lân cận đều tụ tập về đây để tổ chức các lễ hội lớn như Chol-chnam-thmay, Dolta, Lễ cúng trăng Ok-om-bok.