Dưới đây là các mẫu soạn bài tác phẩm “Trong lòng mẹ” của tác giả Nguyên Hồng. Mong rằng qua bài viết này sẽ giúp các em học sinh có thể nắm được nội dung của bài học và hiểu rõ hơn về diễn biến tâm lí của nhân vật bé Hồng. Từ đó thêm thấu hiểu và thông cảm cho nhân vật này.
Mục lục bài viết
- 1 1. Phân tích nhân vật bà cô trong cuộc đối thoại với cậu bé Hồng:
- 2 2. Tình yêu thương mãnh liệt của chú bé Hồng đối với người mẹ bất hạnh được thể hiện như thế nào?
- 3 3. Qua đoạn trích “Trong lòng mẹ” hãy chứng minh văn Nguyên Hồng giàu chất trữ tình:
- 4 4. Qua đoạn trích, hiểu như thế nào là hồi ký:
- 5 5. Tại sao nói rằng Nguyên Hồng là nhà văn của phụ nữ và nhi đồng?
- 6 6. Phân tích đoạn trích “Trong lòng mẹ”:
1. Phân tích nhân vật bà cô trong cuộc đối thoại với cậu bé Hồng:
Câu 1 ( trang 20 sgk Ngữ Văn 8 tập 1):
Mẫu 1:
Nhân vật dì và chú bé Hồng:
– Nhân vật dì gây ấn tượng mạnh với người đọc ở sự hiểm độc, lời lẽ cay nghiệt, độc ác và bảo thủ cùng lối sống tàn ác của xã hội cũ.
– Khoét sâu vào sự thiếu thốn tình mẹ của Hồng với câu hỏi vô tâm ” mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ mày không”
– Giọng nói mang ý giễu cợt, khuôn mặt tươi cười đầy khinh miệt muốn chia rẽ tình mẹ con, muốn đứa cháu “khinh bỏ mẹ” bằng những cử chỉ ngọt ngào nhưng rất kịch, những hành động lo lắng quan tâm giả dối, những lời nói cay độc, suy nghĩ hiểm ác, xấu xa.
Mẫu 2:
Phân tích nhân vật bà cô:
– Lời nói “Mày có muốn vào Thanh Hóa không?” → thể hiện sự độc ác, tàn nhẫn, khoét sâu vào nỗi đau xa mẹ của cậu bé Hồng.
– “Phát tài”: nói mỉa người mẹ nghèo khổ, “em bé”: gieo rắc hoài nghĩ để bé Hồng ruồng rẫy mẹ → mỉa mai, chế giễu mẹ cậu nhằm chia rẽ tình cảm.
→ Bà cô của Nguyên Hồng giả đối, sống tàn nhẫn không có lòng vị tha, đại điện cho những hủ tục, thành kiến đày đọa người phụ nữ trong xã hội cũ.
2. Tình yêu thương mãnh liệt của chú bé Hồng đối với người mẹ bất hạnh được thể hiện như thế nào?
Câu 2 (trang 9 sgk Ngữ Văn 8 tập 1):
Mẫu 1:
Tình cảm của bé Hồng dành cho người mẹ bất hạnh:
– Hơn một năm không có tin tức gì về mẹ nhưng bé Hồng không hề trách móc gì mẹ.
– Tưởng tượng ra khuôn mặt hiền từ buồn bã của mẹ.
– Sau khi nhận ra sự ác ý của người dì độc ác muốn chia rẽ tình mẫu tử giữa hai mẹ con, Hồng vẫn yêu thương và kính trọng mẹ.
– Muốn phá bỏ những nếp sống cổ hủ đã đày đọa mẹ mình, để thấu hiểu hoàn cảnh và nỗi đau mà mẹ đã phải trải qua
– Khi được gặp lại mẹ, Hồng hạnh phúc và sung sướng, quên đi hết thảy những tủi hờn, đau buồn khi sống trong một gia đình giả tạo, dối trá độc ác.
Mẫu 2:
Tình yêu thương mãnh liệt của bé Hồng với người mẹ bất hạnh:
– Khi nghe những lời giả dối, thâm độc xúc phạm mẹ mình: cậu bé Hồng cúi đầu không đáp, tỉnh táo nhận ra mưu kế tanh bẩn của bà cô, nghe thấy từ “em bé” thì thương mẹ, uất ức, căm tức hủ tục xã hội phòng kiến chia cắt tình cảm mẹ con.
– Khi được gặp và nằm trong lòng Mẹ thì kêu lên:”Mợ ơi” → tiếng gọi tha thiết khát khao tình mẹ cùng loạt các hành động gấp gáp: đuổi theo, gọi bối rối, thở hồng hộc, trèo lên xe ríu cả chân, òa khóc. Trong lòng mẹ, cậu mơn man sung sướng, ngắm kĩ gương mặt mẹ.
→ bé Hồng yêu thương, có niềm tin mãnh liệt vào người mẹ của mình.
3. Qua đoạn trích “Trong lòng mẹ” hãy chứng minh văn Nguyên Hồng giàu chất trữ tình:
Câu 3 ( trang 20 sgk Ngữ Văn 8 tập 1):
Mẫu 1:
Chất trữ tình thể hiện trong văn Nguyên Hồng:
Hoàn cảnh trần thuật, nội dung đặc sắc:
– Hồng phải sống cuộc đời khắc nghiệt, bị họ hàng ghẻ lạnh
– Mẹ Hồng phải âm thầm chôn vùi tuổi thanh xuân, chịu nhiều cay đắng, dư luận xã hội cũ
– Tình thương mẹ, sự kính trọng của cậu bé Hồng không hề thay đổi trước những lời nói và ý đồ độc ác của dì
Dòng cảm xúc mạnh mẽ của bé Hồng:
– Xót xa, tủi nhục, căm hờn
– Quyết liệt bảo vệ tình yêu của mẹ
– Sự thấu hiểu, cảm thương và yêu thương mẹ
– Lời văn say mê diễn đạt cảm xúc dạt dào, chân thật
– Hình ảnh so sánh giàu sức gợi hình, gây ấn tượng mạnh
– Kể chuyện tài tình, khéo léo, kết hợp nhuần nguyễn giữa miêu tả cảm xúc và biểu cảm.
Mẫu 2:
Ngòi bút của nhà văn Nguyên Hồng giàu chất trữ tình. Đối tượng thể hiện ở ngòi bút của ông là tình mẫu tử thiêng liêng, ở những dòng cảm xúc phong phú của bé Hồng. Hơn nữa, đặc sắc trong ngòi bút của ông là cách miêu tả, cách kể đầy cảm xúc, các so sánh ấn tượng đầy sức gợi.
4. Qua đoạn trích, hiểu như thế nào là hồi ký:
Câu 4 ( trang 20 sgk Ngữ Văn 8 tập 1):
Mẫu 1:
Hồi ký là lời tường thuật của chính tác giả về các sự kiện có thật trong quá khứ mà tác giả đã nhìn thấy hoặc trải qua.
Hồi ký giống như một cuốn nhật ký vì nó được trình bày theo trình tự thời gian. Những kỉ niệm mang tính chất chủ quan, nhưng sống động chân thực nhờ những dòng bộc lộ cảm xúc tức thời của tác giả.
Mẫu 2:
Hồi kí là một thể loại kí kể lại những sự việc đã xảy ra trong quá khứ mà người kể là người tham dự hoặc chứng kiến, tác giả là người xưng tôi.
5. Tại sao nói rằng Nguyên Hồng là nhà văn của phụ nữ và nhi đồng?
Câu 5 (trang 20 sgk Ngữ Văn 8 tập 1):
Mẫu 1:
Nguyên Hồng là nhà văn của phụ nữ và trẻ em:
Nhân vật chính trong các tác phẩm của ông là phụ nữ và trẻ em
Thấu hiểu thân phận nhỏ bé bị áp bức của người già và trẻ em, đồng cảm với họ trong xã hội.
Thấy được phẩm chất tốt đẹp cao quý của người phụ nữ, sự hồn nhiên, trong sáng của trẻ thơ.
Trong đoạn trích “Trong lòng mẹ”:
– Nhân vật người cô tiêu biểu cho những hủ tục phong kiến còn sót lại
– Nhân vật mẹ bé Hồng: có hình ảnh một người phụ nữ sống tần tảo, chịu nhiều vất vả, chịu tủi nhục.
– Nhân vật bé Hồng: Sống trong hoàn cảnh thiếu thốn tình cảm, mất mát gia đình.
Mẫu 2:
Nguyên Hồng được gọi là nhà văn của phụ nữ và trẻ em:
– Cái nhìn thông cảm, thấu hiểu những nỗi khổ đau của người phụ nữ giữa những hủ tục khắt khe, người con trẻ với khát vọng tình thương, nỗi đau tinh thần.
– Là nhà văn am hiểu sâu sắc về phụ nữ và trẻ em, có sự nắm bắt cá tính và tâm lí nhân vật qua lối văn giàu cảm xúc và ngọt ngào.
6. Phân tích đoạn trích “Trong lòng mẹ”:
Nguyên Hồng sinh năm 1918, mất năm 1982, quê ở Thành phố Nam Định. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông sống chủ yếu ở xóm lao động nhỏ bé Hải Phòng nên được tận mắt chứng kiến cuộc sống vất vật của những mảnh đời cơ cực. Nguyên Hồng là nhà văn xuất thân từ “lớp dưới đáy” của xã hội. Viết về thế giới nhân vật này, ông thường bày tỏ lòng yêu mến, trân trọng sâu sắc những phẩm chất đáng quý của họ. Văn xuôi Nguyên Hồng đượm chất trữ tình. Đó là tiếng nói chân thành của trái tim, nhạy cảm trước nỗi đau và niềm hạnh phúc bình dị của con người.
Những ngày thơ ấu là cuốn hồi ký viết về tuổi thơ bất hạnh của chính tác giả. Tác phẩm gồm 9 chương đăng báo từ năm 1938 và in thành sách năm 1940. Trong lòng mẹ là chương 4. Bằng lời văn chân thực và xúc động, tác giả đã kể một câu chuyện nhiều đắng cay của một người con mồ côi cha sớm với tình yêu mẹ cháy bỏng. Qua hoàn cảnh éo le và đau lòng của bé Hồng, tác giả còn cho ta thấy bộ mặt lạnh lùng, vô cảm của loài người nhỏ nhen, ghen tuông, độc ác trong xã hội phong kiến tư sản chỉ coi trọng đồng tiền. Những định kiến cũ của giai cấp tiểu tư sản đã cố tình cắt đứt tình mẫu tử thiêng liêng.
Đoạn trích này có thể được chia thành hai phần. Phần một là cuộc đối thoại giữa người cô và cậu bé Hồng. Cùng suy nghĩ, tình cảm của cậu về người mẹ tội nghiệp của mình. Phần 2 là cuộc gặp gỡ bất ngờ với mẹ và cảm giác vui sướng tột độ của bé Hồng khi được ngồi trong lòng mẹ.
Chú bé Hồng là kết quả của một cuộc hôn nhân ép buộc không tình yêu. Người cha già bệnh tật lặng lẽ sầu muộn quanh năm bên bàn đèn thuốc phiện. Một người mẹ trẻ đẹp luôn khao khát tình yêu nhưng lại phải chôn vùi tuổi thanh xuân của mình với người chồng nghiện ngập. Gia đình bé Hồng ban đầu giàu có, đầy đủ về vật chất nhưng lại lạnh lẽo, không tiếng nói cười.
Sau đó, người cha bị bệnh qua đời. Người mẹ không chịu được áp lực quá lớn từ nhà chồng nên đành bỏ con ra đi để Hồng sống với người dì độc ác và đen tối. Cũng như bao đứa trẻ khác, cậu yêu mẹ, mong được ở bên mẹ nhưng cố giấu kín trong lòng, chỉ thỉnh thoảng mới bộc lộ ra ngoài. Vì thế, lòng thương yêu mẹ của bé Hồng lại càng da diết.
Mở đầu đoạn văn, tác giả giúp người đọc hình dung ra hoàn cảnh éo le của bé Hồng bằng giọng văn giản dị, tự nhiên: Tôi đã bỏ khăn tang trên đầu rồi. Không phải vì tang thầy tôi, mà vì tôi đã mua mũ trắng và cà vạt đen. Sau đó, tác giả kể về thời gian xảy ra câu chuyện và cuộc sống của người mẹ nghèo.
Gần đến ngày giỗ đầu của cha, mẹ Hồng ở Thanh Hóa vẫn chưa về. Hồng nghe đâu đó nói rằng trong mẹ tôi đi bán bóng đèn và vào những phiên chợ tỉnh còn bán cả vàng hương nữa.
Chính từ điều này mà câu chuyện đã được khơi nguồn. Mặc dù là người thân máu mủ ruột thịt đáng lẽ ra phải yêu thương cháu mình nhưng nhân vật bà cô xuất hiện và tâm địa độc ác của bà ta càng về sau càng lộ rõ. Bà cô này đã cố tình nói về cảnh ngộ thảm thương của mẹ với cậu bé Hồng để rồi cười cợt, nhạo báng, thoả mãn trên nỗi đau của người khác.
Nụ cười giả tạo của bà cô ẩn chứa ác ý rõ ràng. Nó như nhát dao sắc nhọn cố tình cứa vào trái tim non nớt đang rỉ máu của đứa cháu vừa mất cha, vừa phải chịu cảnh xa mẹ. Lẽ ra Hồng sẽ trả lời rằng cậu muốn thế vì đang thiếu tình yêu thương của người mẹ, nhưng với tâm hồn nhạy cảm, cậu đã nhanh chóng nhận ra ngay ý nghĩa giễu cợt trong giọng nói và nét mặt của cô khi bà cười lớn như vậy. Vì thế, cậu cúi đầu không đáp.
Chỉ một đoạn trích ngắn cũng đủ để người đọc cảm nhận được tình yêu thương sâu nặng mà cậu bé Hồng dành cho mẹ của mình. Không chỉ vậy, tác phẩm còn thể hiện niềm cảm thương và lên án những hủ tục phong kiến đã đẩy người phụ nữ đến con đường đau khổ, cơ cực.