Đoạn trích Thề nguyền trong Truyện Kiều của Nguyễn Du không chỉ là một tình tiết quan trọng trong truyện mà còn thể hiện sự phức tạp của các mối quan hệ giữa các nhân vật, cũng như tình yêu và lòng trắc ẩn của nhân vật.
Mục lục bài viết
1. Phân tích đề:
Yêu cầu đề bài: phân tích cuộc gặp gỡ và thề nguyền giữa Thúy Kiều và Kim Trọng trong truyện Kiều để hiểu hơn về tình yêu trong sáng, đậm đà của hai nhân vật chính, có thể xem xét những chi tiết về cử chỉ, hành động, lời nói và suy nghĩ của cả hai nhân vật để phân tích tình cảm của họ.
Phương pháp làm bài: phương pháp phân tích
2. Hệ thống luận điểm:
Luận điểm 1: Tâm trạng, tình cảm của Kiều và Kim Trọng khi Kiều sang nhà Kim Trọng
Luận điểm 2: Kiều cùng Kim Trọng thề nguyền
3. Dàn ý phân tích đoạn trích Thề nguyền – Truyện Kiều của Nguyễn Du:
3.1. Mở bài:
Trích đoạn Thề nguyền miêu tả cảnh hai người gặp nhau tại nhà trọ của Kim Trọng, cùng nhau uống rượu, ngâm thơ và thề nguyền gắn bó trăm năm. Qua nghệ thuật kể chuyện và miêu tả, Nguyễn Du đã tôn vinh tình yêu tự do trong sáng và say đắm của đôi trai tài gái sắc, vượt lên trên những ràng buộc khắt khe của luân lí phong kiến đương thời.
3.2. Thân bài:
Khát vọng tình yêu mãnh liệt của Thuý Kiều.
Trong đoạn trích, tác giả miêu tả cảnh vườn Thuý đêm trăng thơ mộng, nơi Kim – Kiều bày tỏ tình cảm trong sáng và đẹp đẽ. Thuý Kiều chủ động và dũng cảm, còn Kim Trọng đón tiếp người yêu với thái độ trân trọng. Lễ thề nguyền của hai người diễn ra trong không khí khẩn trương, nhưng vẫn mang đầy thiêng liêng và cảm động. Các từ miêu tả hành động và tình cảm được sử dụng táo bạo và chính xác, góp phần làm nổi bật thái độ chủ động và tâm trạng sốt ruột của Thuý Kiều. Đoạn trích này là một kỉ niệm sâu sắc không thể nào quên trong đời Kiều.
3.3. Kết bài:
Trong đoạn trích trên, Nguyễn Du kết hợp bút pháp kể chuyện và miêu tả nhân vật để tạo nên khung cảnh một đêm thề huyền ảo, trang nghiêm và độc đáo. Tác giả chứng kiến, nâng niu và chia sẻ tình yêu của cặp đôi Kim-Kiều, một tình yêu trong sáng, dũng cảm vượt qua những ràng buộc khắt khe của chế độ phong kiến. Đây là quan điểm tiến bộ của Nguyễn Du về tình yêu và hồn nhân tự do trong xã hội phong kiến.
4. Phân tích đoạn trích Thề nguyền – Truyện Kiều của Nguyễn Du hay nhất:
Trong chuyến đi chơi cùng hai người bạn, Thuý Kiều đã gặp Kim Trọng, bạn của Vương Quan. Hình bóng đẹp trai và tài giỏi của anh chàng đã khiến trái tim nhạy cảm của Thuý Kiều thổn thức. Tình yêu giữa họ bắt đầu nảy nở. Kiều băn khoăn tự hỏi:
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không ?
Kim Trọng thì cũng :
Bâng khuâng nhở cảnh nhớ người,
Nhớ nơi kì ngộ vội dời chân ơi,
Trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, có đoạn miêu tả cảnh hai nhân vật chính, Thuý Kiều và Kim Trọng, gặp nhau tại nhà trọ của Kim Trọng và thề nguyền gắn bó trăm năm dưới ánh trăng. Đoạn trích này rất tinh tế khi kết hợp giữa bút pháp hiện thực và cổ điển để ca ngợi tình yêu tự do, trong sáng và say đắm của đôi trai tài, gái sắc. Tình yêu này vượt qua mọi rào cản, ràng buộc khắt khe của giáo lí phong kiến đương thời.
Tuy nhiên, đoạn trích còn kể về ám ảnh của Thuý Kiều về tính chất mong manh, bất định của tình yêu sau khi thắp hương ở nấm mồ cô quạnh của Đạm Tiên. Nàng bị ám ảnh bởi bốn chữ tài hoa bạc mệnh. Mặc dù đã có mối lương duyên với Kim Trọng, nhưng Kiều vẫn cảm thấy lo lắng và e thẹn khi phải nói lời tạm biệt để trở về nhà trống vắng đợi cha mẹ và hai em trở về.
Tác giả Nguyễn Du đã dành nhiều câu thơ tâm huyết để miêu tả về nhân vật Thuý Kiều, người đã trải qua nhiều biến cố trong cuộc đời. Trong đoạn trích này, Kiều được miêu tả như một người đầy tình cảm và mong muốn được sống tự do, thoải mái bên người mình yêu thương.
Tổng kết lại, đoạn trích trong “Truyện Kiều” này không chỉ miêu tả về tình yêu tự do và say đắm của đôi trai tài, gái sắc mà còn thể hiện được những ám ảnh, lo lắng của nhân vật chính, Thuý Kiều, về tính chất mong manh và bất định của tình yêu:
Của ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xâm băng lối vườn khuya một mình.
Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ tả tình và gợi cảm để miêu tả sự khát khao và đam mê của Thuý Kiều. Những từ tươi sáng đã mô tả bước chân quả quyết và táo bạo của Kiều khi cô vội vã tìm lối shortcut qua vườn đêm khuya để đến nhà Kim Trọng. Nhịp thơ ngắn, gấp gáp với những từ như “xăm xảm” và “băng lối” đã thể hiện rõ thái độ tích cực và tâm trạng lo lắng của Kiều khi mong muốn gặp lại người yêu. Đồng thời, Kiều dường như muốn cạnh tranh với thời gian và phủ nhận số phận đang ám ảnh, nhưng động lực chính vẫn là tình yêu mãnh liệt.
Khung cảnh đêm trăng trong vườn Thuý trở nên huyền ảo và lãng mạn, khiến những người đang yêu tìm đến nhau.
Nhặt thưa gương giọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tinh dở chiều như mê.
Tiếng sen sẽ động giấc hoè,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Trong đêm đó, không khí được Nguyễn Du miêu tả bằng những hình ảnh tuyệt đẹp. Ánh trăng lấp lánh chiếu sáng qua những chiếc lá, tạo nên những mảng sáng tối mờ tò trên mặt đất. Những cánh lá rụng từng chùm cùng tiếng rơi nhẹ nhàng tạo nên một không gian yên bình, thanh tịnh.
Trên bầu trời đầy sao, những con chim đêm lảo đảo bay lượn tạo nên một cảnh tượng huyền ảo. Tiếng gót sen của nàng Kiều nhè nhẹ đến gần khiến cho Kim Trọng bỗng tỉnh giấc. Gót chân nàng đánh trên mặt đất như những mảnh sương rơi, tạo nên âm thanh êm dịu, nhẹ nhàng. Anh ta cảm thấy ngạc nhiên và lâng lâng sung sướng khi thấy bóng dáng của nàng trong giấc mơ hiện ra trước mắt.
Kim Trọng cảm thấy như đang lạc vào một thế giới khác, một thế giới mơ màng, đầy màu sắc và cảm xúc.
Bâng khuâng đĩnh Giáp non thần,
Còn ngờ giấc mộng đồm xuân mơ màng
Kim Trọng, một văn nhân thanh lịch và tế nhị đã chào đón Thuý Kiều một cách trang trọng và tỏ ra rất quan tâm đến những suy nghĩ của cô ấy. Trong giây phút đó, không gian trở nên ấm áp hơn với sự hiện diện của hai người, và nếu như có thể nhìn thấy được thì chắc chắn đó sẽ là hình ảnh của những tâm hồn đang ngập tràn tình yêu.
Thuý Kiều, với sự tự tin và quyến rũ của một người phụ nữ thông minh, đã chủ động gửi tình yêu đến Kim Trọng. Từ những lời nói đầu tiên, cả hai đã cùng nhau tạo nên một ngọn lửa tình yêu rực cháy, để rồi từ đó, những ngày tháng bên nhau trở nên ngọt ngào hơn bao giờ hết.
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường;
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rỏ mật đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ?”
Lời nói của Thuý Kiều mang nhiều ý nghĩa. Đầu tiên, nhà cô ở cạnh nhà Kim Trọng, nhưng cô lại nói rằng khoảng trống trong đêm là biểu hiện của không gian và thời gian tâm lý. Khi yêu nhau, con người cảm thấy kết nối với nhau không đủ, và muốn gần hơn. Do đó, việc Thuý Kiều đi đến nhà Kim Trọng vào ban đêm có thể được coi là cô tự vượt qua sự ngăn cách của thời gian và không gian tâm lý để đạt được tình yêu, tự quyết định số phận của mình.
Thứ hai, Thuý Kiều nói: “Vì hoa nên trổ đường tìm hoa”, nghĩa là vì tình yêu mãnh liệt mà cô phải chủ động đến nhà Kim Trọng. Chữ hoa thường được sử dụng để chỉ nữ giới, nhưng ở đây, Kiều sử dụng chữ hoa để ám chỉ tình yêu nồng nàn và tha thiết mà cô dành cho Kim Trọng. Sau đó, Kiều nói: “Bây giờ rõ mặt đôi ta, Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”, trong đó có sự thanh minh và bày tỏ sự dự cảm không tốt về sự dang dở của tình yêu đôi lứa. Cô ấy như đang đua với thời gian, muốn vượt qua định mệnh khắc nghiệt của mình. Nguyễn Du đã nhập vai Thuý Kiều để hiểu và đồng cảm với thái độ và hành động của cô ấy.
Khi nghe Thuý Kiều nói, Kim Trọng hiểu cảm xúc của cô ấy: “Vội vàng làm lỗ rước vào, Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương”, rồi hai người thề nguyền kết tóc se tơ, trăm năm vàng đá. Tác giả miêu tả không khí khẩn trương của lời thề nguyền bất ngờ, không được chuẩn bị trước. Nó diễn ra nhanh chóng nhưng rất trang trọng và thiêng liêng:
Vừng trăng vàng vặc giữa trời,
Dinh ninh hai miệng một lời song song.
Tóc tơ cân vặn tấc lóng,
Trăm nám tạc một chữ đổng đốn xương.
Trong đoạn trích này, tác giả sử dụng hai lần từ “vội”: “Cửa ngoài vội rủ rèm theo, vội vàng làm lỗ rước vào một lần từ xăm xăm; một lần từ băng.” Nhịp điệu khẩn trương của buổi lễ thề nguyền được tác giả tô đậm bằng những từ đặc biệt này.
Lời thề nguyền gắn bó “Trăm năm tạc một chữ đổng” đến xương của Thuý Kiều và Kim Trọng đã được Vừng trăng vàng vặc giữa trời chứng giám. Đây cũng là sự tiếp tục một cách logic quan niệm về tình yêu của Thúy Kiều. Những chi tiết trong đoạn trích này góp phần làm cho người đọc hiểu sâu nội dung của đoạn Trao duyên, vì đêm thề nguyền đã trở thành kỉ niệm đẹp đẽ, sâu sắc của mối tình đầu nên Kiều không bao giờ quên được. Tình yêu mãnh liệt, lời thề xuất phát từ hai trái tim yêu nồng nàn sẽ mãi mãi in đậm dấu ấn vào tâm tưởng của đôi trai tài gái sắc. Cũng vì thế mà trải qua bao gió dập sóng vùi của cuộc đời, họ vẫn thương nhớ nhau khôn nguôi.
Đoạn trích kể về đêm thề nguyền, đỉnh cao của tình yêu Thuý Kiều – Kim Trọng mà Truyện Kiều đã thể hiện sự chủ động của Thuý Kiều. Sự chủ động này đã từng gây ra phản ứng phô phán, chỉ trích dữ dội của một số nhà Nho thử cựu vốn mang nặng thành kiến Nho giáo.
Có hai lý do hiện thực và tâm linh khiến Thuỷ Kiều phải giành quyền chủ động. Lý do hiện thực tất nhiên là tình yêu mãnh liệt. Thuý Kiều và Kim Trọng đến với nhau bằng một tình yêu rất tự nhiên, nhất kiến chung tình. Thuý Kiều đến với Kim Trọng cũng giống như cánh buồm gặp gió, cánh buồm phải căng gió, con người phải có tình yêu, do đó nàng không có lỗi. Nhà thơ đã xây dựng thành công một tình yêu trong sáng và lãng mạn tuyệt vời. Mối tình giữa Thúy Kiều và Kim Trọng là mối tình đẹp đẽ giữa trai tài gái sắc. Bên cạnh đó là lý do tâm linh: Thuý Kiều, số mệnh bất công dành cho những người con gái tài sắc nên tìm đến với tình yêu để chống lại định mệnh: “Sống làm vợ khắp người ta, Hại thay thác xuống làm ma không chồng”. Đến đây thì chúng ta đã hiểu vì sao Thuý Kiều nói với Kim Trọng như để thanh minh về sự chủ động của mình: “Bây giờ rõ mặt đôi ta, Biết đâu rổi nữa chẳng là chiêm bao?”
Đoạn trích Thề nguyền đưa ra quan điểm của Nguyễn Du về tình yêu và hôn nhân, đặc biệt là ủng hộ tình yêu và hôn nhân tự do, tự nguyện, bất kể định kiến khắt khe của lễ giáo phong kiến thời đó. Thông thường, quan niệm Nho giáo cho rằng người nam phải chủ động trong mối quan hệ nam nữ, tuy nhiên ở đây, bất chấp sự khắc nghiệt của đạo lý và dư luận, Nguyễn Du đã sử dụng Thúy Kiều như một minh chứng cho sự chủ động của phụ nữ. Nhà thơ thể hiện ước mơ về tình yêu tự do qua mối tình Kim-Kiều. Điều này chứng tỏ ông có cái nhìn tiến bộ, vượt trước thời đại.
Mối tình giữa Kiều và Kim là một tình yêu trong sáng, đẹp đẽ nhưng lại phải chấm dứt nhanh chóng vì sự phong ba bão táp của chế độ phong kiến tàn bạo. Tuy nhiên, xã hội bất công chỉ có thể làm hại thân thể của Kiều, nhưng không thể cướp đi tình yêu tha thiết của cô dành cho Kim Trọng. Tấm lòng kiên trinh và trung thành của Kiều không thể đương đầu với bao nhiêu thế lực hung hãn trong xã hội vạn ác. Thời gian có thể trôi qua nhưng tinh yêu trong trái tim Kiều không bao giờ tàn phai. Mỗi khi nghĩ về Kim Trọng, cô luôn cảm thấy băn khoăn và đau buồn: “Tiếc thay chút nghĩa cũ càng, dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”. Đoạn trích này giúp người đọc hiểu rõ hơn về nội dung đoạn Trao duyên, đồng thời là một kỉ niệm đẹp đối với Kiều và cô sẽ nhớ mãi những chi tiết của đêm thề nguyền thiêng liêng này trong suốt cuộc đời.