Truyền Chức Thánh là một trong những bí tích quan trọng trong đạo công giáo, cùng chúng tôi khám phá những kiến thức liên quan đến truyền Chức Thánh qua bài viết dưới đây nhé
Mục lục bài viết
1. Truyền Chức Thánh là gì?
Truyền chức (ordo, ordinatio) là một Bí tích, trong đó, qua việc đặt tay và lời cầu nguyện của Giám mục, các tín hữu nhận được quyền và ân sủng thiêng liêng để thực thi quyền này theo cách đẹp lòng Chúa.
2. Tính Bí tích của việc truyền chức thánh:
2.1. Tín lý:
Chống lại học thuyết Tin lành chỉ tin vào chức tư tế cộng đồng của các tín hữu, Công đồng Tridentine tuyên bố rằng trong Giáo hội Công giáo có chức tư tế hữu hình và vô hình, một trật tự phẩm trật theo ý Chúa được thiết lập, có nghĩa là một chức tư tế đặc biệt và một cấp bậc linh mục đặc biệt, khác biệt với trật tự giáo dân về bản chất. Chỉ qua một Bí tích đặc biệt, các tín hữu mới được thừa nhận chức tư tế. Định nghĩa của Cộng Đồng chỉ xác nhận tính cách bí tích của các Chức Thánh nói chung, nhưng không đề cập đến tính chất của mỗi cấp bậc.
2.2. Chứng cứ Thánh Kinh:
Các báo cáo về văn thư tuyển sinh nêu bật những nét đặc thù của khái niệm BT.
– Theo cách giải thích truyền thống, Công vụ 6:6 tường thuật việc đặt các chấp sự: “Họ được dẫn đến trước mặt các Sứ đồ. Cầu nguyện xong, các Tông Đồ đặt tay trên họ.”
Công-vụ 14:23 nói về sự sắp đặt các trưởng lão: “Họ bổ nhiệm các trưởng lão trong mỗi hội thánh, rồi sau khi kiêng ăn và cầu nguyện, họ phó thác họ cho Chúa, là Đấng họ tin cậy”.
Thánh Phaolô viết cho môn đệ Ti-mô-thê: “Tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa mà anh đã lãnh nhận khi tôi đặt tay trên anh” (2Tm 1,6). 1Tim 4:14: “ đừng dửng dưng trước đặc sủng Thiên Chúa đã ban cho anh qua ngôn sứ, khi các kỳ mục đặt tôi lên trên anh”.
Việc chấp nhận vào hệ thống phân cấp giáo hội được thực hiện thông qua một quá trình phân định, bao gồm cả việc đặt tay và cầu nguyện. Thông qua nghi thức bên ngoài này, người thụ phong được trao quyền để thực thi chức vụ và ân sủng bên trong. Việc thành lập chính Chúa Kitô dựa trên thực tế là chỉ có Thiên Chúa, đặc biệt là Người đàn ông thiêng liêng Chúa Giêsu Kitô, mới có thể liên kết một nghi thức bên ngoài với việc ban ân sủng bên trong.
Từ “đặc sủng” trong đoạn thứ hai của Thư gửi Ti-mô-thê không ám chỉ các đặc sủng (Charismen), mà chỉ nói đến ân sủng thánh hiến được ban cho khi thi hành thừa tác vụ thánh.
Lời khuyên của Sứ đồ Phao-lô dành cho Ti-mô-thê: “Chớ đặt tay trên ai” (1 Ti-mô-thê 5:22) làm chứng rằng, nếu cách giải thích về sự truyền chức là đúng, thì các nhà lãnh đạo Giáo hội mà các Sứ đồ đã đặt tay sẽ tiếp tục truyền lại thẩm quyền đã nhận được cho những người kế vị của họ thông qua việc đặt tay. Nhiều nhà giải thích Kinh thánh (chẳng hạn như P. Galtier, K. Rahner) giải thích việc đặt tay trong đoạn văn này là một nghi thức hòa giải, vì câu 20 nói về việc xử lý “tội nhân”.
2.3. Chứng cứ Thánh Truyền:
Các báo cáo về văn thư tuyển sinh nêu bật những nét đặc thù của khái niệm BT.
– Theo cách giải thích truyền thống, Công vụ 6:6 tường thuật việc đặt các chấp sự: “Họ được dẫn đến trước mặt các Sứ đồ. Cầu nguyện xong, các Tông Đồ đặt tay trên họ.”
Công-vụ 14:23 nói về sự sắp đặt các trưởng lão: “Họ bổ nhiệm các trưởng lão trong mỗi hội thánh, rồi sau khi kiêng ăn và cầu nguyện, họ phó thác họ cho Chúa, là Đấng họ tin cậy”.
Thánh Phaolô viết cho môn đệ Ti-mô-thê: “Tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa mà anh đã lãnh nhận khi tôi đặt tay trên anh” (2Tm 1,6). 1Tim 4:14: “ đừng dửng dưng trước đặc sủng Thiên Chúa đã ban cho anh qua ngôn sứ, khi các kỳ mục đặt tôi lên trên anh”.
Việc chấp nhận vào hệ thống phân cấp giáo hội được thực hiện thông qua một quá trình phân định, bao gồm cả việc đặt tay và cầu nguyện. Thông qua nghi thức bên ngoài này, người thụ phong được trao quyền để thực thi chức vụ và ân sủng bên trong. Việc thành lập chính Chúa Kitô dựa trên thực tế là chỉ có Thiên Chúa, đặc biệt là Người đàn ông thiêng liêng Chúa Giêsu Kitô, mới có thể liên kết một nghi thức bên ngoài với việc ban ân sủng bên trong.
Từ “đặc sủng” trong đoạn thứ hai của Thư gửi Ti-mô-thê không ám chỉ các đặc sủng (Charismen), mà chỉ nói đến ân sủng thánh hiến được ban cho khi thi hành thừa tác vụ thánh.
Lời khuyên của Sứ đồ Phao-lô dành cho Ti-mô-thê: “Chớ đặt tay trên ai” (1 Ti-mô-thê 5:22) làm chứng rằng, nếu cách giải thích về sự truyền chức là đúng, thì các nhà lãnh đạo Giáo hội mà các Sứ đồ đã đặt tay sẽ tiếp tục truyền lại thẩm quyền đã nhận được cho những người kế vị của họ thông qua việc đặt tay. Nhiều nhà giải thích Kinh thánh (chẳng hạn như P. Galtier, K. Rahner) giải thích việc đặt tay trong đoạn văn này là một nghi thức hòa giải, vì câu 20 nói về việc xử lý “tội nhân”.
Truyền thống chứng thực việc Thiên Chúa thiết lập phẩm trật giáo hội, trao ban chức tư tế qua việc đặt tay, cầu nguyện và ân sủng nội tâm. Gregor of Nyssa đã so sánh việc truyền chức linh mục với việc truyền phép Thánh Thể: “Sức mạnh của lời nói làm cho các linh mục trở nên vĩ đại và đáng kính trọng, và khiến họ khác biệt với đám đông. bởi sự mới lạ của các thánh. văn phòng. Hôm qua và hôm kia, anh vẫn là một trong số hàng nghìn người, một trong số tất cả mọi người. Và lần đầu tiên, anh trở thành một nhà lãnh đạo, một giáo viên đạo đức, một người giải quyết những bí ẩn. Ngài vẫn y nguyên, không có gì thay đổi về thể xác hay hình hài, nhưng với quyền năng và ân sủng vô hình, linh hồn vô hình của Ngài đã được biến đổi hoàn hảo”.
3. Các cấp bậc trong chức thánh:
3.1. Bốn chức nhỏ và chức phụ phó tế:
Không nên lấy Decretum pro Armenis (D 701) làm bằng chứng chống lại giáo huấn của Thánh Thomas và của các nhà thần học kinh viện, nhưng Hiến pháp này không phải là một quyết định giáo lý không thể sai lầm, mà là một quyết định giáo lý không thể sai lầm. Chỉ là một hướng dẫn thực tế. Về vấn đề này, Hội đồng Tridentine đã không có hành động nào. Tự sắc “SACRAMENTUM ORDINIS” của Đức Giáo Hoàng Piô XII (1947) công khai khẳng định rằng chỉ có phó tế, linh mục và giám mục mới có thể được phong chức.
Các chức vụ nhỏ và các chấp sự không phải do Đức Chúa Trời thiết lập, mà do nhu cầu của hội thánh. Tertullian là người đầu tiên nói về người đọc sách (De praescr. 41), Hippolyt ở Rôma nói về chức phó tế (traditio Apost.), Giáo hoàng Coenelio (D 45) nói chung về các chức nhỏ. (cho đến thế kỷ 12, các phó tế còn thuộc cấp dưới). Nhà thờ Hy Lạp chỉ có hai mệnh lệnh nhỏ: đọc sách và “phó tế phụ trợ”. Khi thánh hiến các văn phòng này, không có sự đặt tay nào.
3.2. Truyền chức linh mục:
Công đồng Tridentine có nói nhưng không rõ ràng (ngầm) về tính bí tích của việc truyền chức linh mục trong định nghĩa của mình: ORDO là một bí tích đích thực và đúng đắn (D 963). Vì tính bình thường của việc truyền chức giám mục và phó tế theo công đồng đã bị tranh cãi, nên định nghĩa này ít nhất đề cập đến việc truyền chức linh mục, mà bản chất của nó không còn bị tranh cãi nữa. Tự sắc “SACRAMENTUM ORDINIS” của Đức Giáo Hoàng Piô XII xác nhận việc truyền chức linh mục cũng như giám mục và phó tế là BT, và chỉ định Materia và Forma cho mỗi cấp bậc truyền chức.
Nghi thức truyền chức thể hiện rõ tính chất gia trưởng của việc truyền chức linh mục vì cơ bản gồm có việc đặt tay và lời nguyện xin Chúa Thánh Thần chúc lành cho người được truyền chức.
3.3. Truyền Chức giám mục:
Công đồng Tridentine tuyên bố rằng các giám mục với tư cách là người kế vị các Tông đồ được đặc ân (praecipue) và rằng các giám mục luôn nói trong lễ tấn phong của mình: ACCIPE SPIRITUM SANCTUM. HÃY NHẬN THÁNH THẦN. Tự sắc SACRAMENTUM ORDINIS của ĐGH Piô XII luôn xác nhận di sản của việc truyền chức. Công Đồng Vatican II dạy rõ ràng: “Khi truyền chức, các giám mục lãnh nhận toàn thể Thánh Bộ Truyền Chức” (LG 21:2).
Hai đoạn Kinh Thánh 2 Tm 1,6 và 1 Tm 4,14 đều trực tiếp đề cập đến việc tấn phong giám mục. Việc cho đi diễn ra thông qua việc đặt tay và cầu nguyện.
Sự phản đối của các nhà thần học kinh viện, rằng việc tấn phong Giám mục không trao bất kỳ quyền năng mới nào cho CORPUS CHRISTI REALE, tức là Rước lễ, cũng bị đặt nhầm chỗ, đơn giản chỉ vì việc tấn phong Giám mục, trao toàn quyền để chia sẻ quyền thánh hiến với người khác.
3.4. Truyền Chức phó tế:
Cách giải thích của Công đồng Tridentine, khi truyền chức giám mục, luôn nói: Accipite Spriritum Sanctum (D 964), điều này cũng áp dụng cho việc truyền chức phó tế. Tự sắc SACRAMENTUM ORDINIS của Đức Giáo Hoàng Piô XII luôn xác tín về tính truyền giáo của chức phó tế, được gần như mọi thần học gia công nhận.
Truyền thống coi Công Vụ Các Sứ Đồ là thiết chế của chức phó tế. Nghi thức cơ bản của việc truyền chức còn nằm ở việc đặt tay và xin ơn Chúa Thánh Thần.
Phó tế, linh mục và giám mục là các cấp bậc bí tích. Đây không phải là ba bí tích khác nhau, nhưng cả ba hợp thành một bí tích truyền chức duy nhất. Chức phó tế chỉ chứa đầy quyền giám mục, mà chức tư tế không trọn vẹn. Cấp thấp nhất tham gia chức linh mục là phó tế.