Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn là một trong những tượng thờ linh thiêng theo tín ngưỡng dân gian của người Việt, vậy bạn đã có những hiểu biết cụ thể về Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn hay chưa, cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết này nhé
Mục lục bài viết
1. Mẫu Thượng Ngàn là ai?
Mẫu Thượng Ngàn hay còn gọi là Mẫu Đệ Nhị hay Bà Chúa Thượng Ngàn, được biết đến là một trong ba vị Mẫu tối cao trong hệ thống tạo thành vũ trụ. Từ thuở khai thiên lập địa, mỗi Thánh Mẫu được vua cha Ngọc Hoàng giao cho cai quản một vùng khác nhau. Trái ngược với Tam Thoải Phủ hay thay đổi nhưng ngoan ngoãn được giao cai quản vùng sông nước, Nhị Thượng Ngàn lại được giao nhiệm vụ cai quản vùng núi hoang vì bản tính bộc trực. Từ ngày Mẫu Thượng Ngàn về cai quản nơi đây, nhân dân mỗi lần đi săn bắt đều được mùa bội thu, nhân dân kính nể và tuân lệnh. Chính vì vậy mà cho đến ngày nay, sự tích về Mẫu Thượng Ngàn vẫn được lưu truyền rộng rãi qua nhiều thế hệ.
2. Sự tích về Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn:
Ở Việt Nam Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn được gắn liền với rất nhiều sự tích, mỗi sự tích lại có những điểm hợp lý và thuyết phục khác nhau. Dù tin theo truyền thuyết nào thì người dân Việt Nam vẫn luôn tin tưởng và tôn thờ Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn.
2.1. Truyền thuyết thứ nhất:
Mẫu Thượng Ngàn là con gái đầu lòng của Ngọc Hoàng. Khi trưởng thành, tính tình ngay thẳng, cứng rắn nên được vua cha Ngọc Hoàng giao cho cai quản vùng rừng núi hoang vu. Nhưng từ khi có chính quyền về vùng này cây cối tươi tốt, săn bắt nhiều hơn trước, đời sống người dân được cải thiện nhiều. Đặc biệt, bà còn dạy dân nhóm lửa, nấu nướng nên người dân kính trọng và thờ cúng bà cho đến ngày nay.
2.2. Truyền thuyết thứ hai:
Mẫu Thượng Ngàn là con vua Đế Thích, xuống trần gian đầu thai làm con vua Hùng Vương. Khi sinh nở, hoàng hậu ở trong rừng, vì quá đau đớn phải bám vào cành quế để sinh nở nên vua Hùng Vương đã đặt tên cho nàng là Quế Hoa Mỵ Nương, nhưng hoàng hậu đã qua đời ngay sau đó. Lớn lên, Quế Hoa luôn nhớ mẹ nên vào rừng tìm mẹ. Cô được Đức Phật và 12 người hầu gái ban cho phép thuật nên đã cố gắng hết sức để giúp đỡ những người lương thiện. Khi nhân dân đã có cuộc sống sung túc, nàng trở về hạ giới. Để tưởng nhớ công ơn của bà, nhân dân đã tôn vinh bà là Mẫu Thượng Ngàn.
2.3. Truyền thuyết thứ ba:
Mẫu Thượng Ngàn là con gái của Sơn Tinh và Mỵ Nương, hiệu là La Bình. Từ nhỏ, nàng thường theo cha đi khắp núi rừng, hang động và được thần núi yêu thương, phù hộ. Sau khi song thân được Ngọc Hoàng Thượng Đế phong làm Thánh mẫu bất tử, bà còn được sắc phong là Mẫu Thượng Ngàn cai quản 81 cửa rừng núi, hang động.
2.4. Truyền thuyết thứ tư:
Mẫu Thượng Ngàn lấy ông Đỗ ở Đồng Đăng, sinh ra ông Đỗ Đồng, ông Đỗ Đồng lấy bà Nguyễn Thị Tươi, sinh ra 8 tướng giúp An Dương Vương, sau hiện lên giúp An Dương Vương, Hai Bà Trưng và các triều đại khác. Dân gian ta gọi là Bát Bộ Sơn Trang, cai quản các thung lũng, núi rừng. Bát Bộ Sơn Trang gồm: Đỗ Trình, Đỗ Triều, Đỗ Hiếu, Đỗ Trung, Đỗ Bích, Đỗ Trường, Đỗ Cường, Đỗ Dũng.
3. Đền thờ Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn:
Hiện nay, đền thờ Mẫu Thượng Ngàn có ở khắp nơi nhưng có 3 nơi thờ chính: Đền thờ ở Suối Mỡ (xã Nghĩa Phương, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang), đền Công Đồng Bắc Lệ (xã Tân Thành, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn) và đền Đông Cuông (thôn Bến Đền, xã Đông Cuông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái). Đây là những ngôi đền linh thiêng thờ Mẫu Thượng Ngàn trong phong tục thờ Mẫu của người Việt. Lễ hội Mẫu Thượng Ngàn diễn ra vào ngày 20 tháng 9 âm lịch hàng năm. Lễ hội thể hiện truyền thống tốt đẹp, văn hóa tâm linh của dân tộc Việt Nam và tinh thần giữ gìn, phát huy thuần phong mỹ tục của ông cha ta từ xưa đến nay. Đó cũng là đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây được truyền từ đời này qua đời khác.
4. Ý nghĩa việc thờ Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn trong văn hóa của người Việt:
Không biết từ bao giờ, tín ngưỡng thờ tượng Tam Tòa Thánh Mẫu nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn nói riêng đã ăn sâu vào nếp ăn, nếp sống của người Việt nên cứ đến ngày 20/9, lễ hội diễn ra theo âm lịch. Lễ hội đền Mẫu Thượng Ngàn chủ yếu ở các vùng núi phía Bắc và miền Trung như suối Mỡ (Bắc Giang), Bắc Lệ (Lạng Sơn), đỉnh núi Bà Nà, v.v.
Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn còn có nhiều tên gọi như: Diệu Tín Thiền Sư, Lệ Mại Đại Vương, Công Chúa Đông Cuông, Lâm Cung Thánh Mẫu, Mẫu Đệ Nhị Nhạc Phủ, Công Chúa Sơn Tinh…
Trước hết, tín ngưỡng thờ Lâm Cung Thánh Mẫu thể hiện truyền thống tốt đẹp, văn hóa tâm linh của người Việt và tinh thần giữ gìn, phát huy thuần phong mỹ tục của ông cha ta từ xưa đến nay. Đó cũng là đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây được truyền từ đời này qua đời khác. Bằng chứng rõ ràng nhất là câu chuyện về Mẫu Thượng Ngàn đã được lưu truyền và đưa vào sử sách.
Không chỉ vậy, tín ngưỡng thờ Bà Chúa Thượng Ngàn còn thể hiện ước nguyện, hy vọng về một cuộc sống ấm no, cây cối tươi tốt, sinh trưởng thuận lợi, lên rừng thuận buồm xuôi gió.
Việc thờ phụng Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn là một nét đẹp văn hóa, truyền thống tín ngưỡng dân gian của người việc. Điều này không chỉ thể hiện tấm lòng hướng phật, mà còn cách để con người ta tu tâm, dưỡng tính, và có niềm tin hơn về cuộc sống. Đây chính là điểm tựa tinh thần vững chắc của người Việt.
5. Văn khấn Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn:
5.1. Mẫu 1 – Văn khấn Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn:
Nam Mô A Di Đà Phật! (3 lần)
Hương tử chúng con dốc lòng kính lạy Đức chúa thượng ngàn đỉnh thượng cao sơn triều mường sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương ngọc điện hạ.
Kính lạy:
- Đức Thượng ngàn chúa tể Mị Nương Quế Hoa công chúa tối tú tối linh, cai quản tám mươi mốt cửa rừng trong cõi Nam giao.
- Chư tiên, chư thánh chư thần, bát bộ sơn trang, mười hai tiên nương, văn võ thị vệ, thánh cô thánh cậu, ngũ hổ bạch xà đại tướng.
Hương tử con là:…………………………………………………………….
Ngụ tại:……………………………………………………………………………………………………………………….
Nhân tiết………….chúng con thân đến………………………..Phủ chúa trên ngàn, đốt nén tâm hương kính dâng lễ vật, một dạ chí thành, chắp tay khấn nguyện. Cúi xin lượng cả bao dung, thể đức hiếu sinh, ra tay cứu vớt, độ cho chúng con cùng cả gia quyến bốn mùa được chữ bình an, tám tiết hưng long thịnh vượng, lộc tài quảng tiến, công việc hanh thông, giải vận giải hạn, biến hung thành cát, đổi họa ra tường, như ý sở cầu, tòng tâm sở nguyện.
Giãi tấm lòng thành, cúi xin chứng giám.
Cẩn tấu !
5.2. Mẫu 2 – Văn khấn Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn:
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
Con lạy chín phương trời, mười phương chư Phật, chư phật mười phương.
Con kính lạy Đức Hiệu Thiên chí tôn kim quyết Ngọc Hoàng Huyền cung cao
Thượng đế.
Con kính lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
Con xin kính Cửu trùng Thanh Vân lục cung công chúa.
Con kính lạy Đức thiên tiên Quỳnh Hoa Liễu Hạnh Mã Hoàng Công chúa, sắc phong Chế Thắng Hoà Diệu đại vương, gia phong Tiên Hương Thánh mẫu.
Con kính lạy Đức đệ nhị đỉnh thượng cao sơn triều mường Sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương.
Con kính lạy Đức đệ tam thủy phủ, Lân nữ công chúa.
Con kính lạy Đức đệ tứ khâm sai Thánh Mẫu, tứ vi chầu hà, năm tòa quan lớn, mười dinh các quan, mười hai Tiên cô, mười hai Thánh cậu, ngũ hổ Đại
tướng, Thanh Hoàng Bạch xà đại tướng.
Hưởng tử (chúng) con là: …………… Ngụ tại: …………….
Hôm nay là ngày ……. tháng …… năm Canh Tý, Hương tử con đến nơi Điện (Phủ, Đền) ……… chắp tay kính lễ khấu đầu vọng bái, lòng con thành khẩn, dạ con thiết tha, kính dâng lễ vật, cúi xin các Ngài xót thương phù hộ độ trì cho gia chung chúng con sức khỏe dồi dào, phúc thọ khang ninh, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an, vạn sự hanh thông, gặp nhiều may mắn.
Hương tử con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
5.3. Mẫu 3 – Văn khấn Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn:
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
Con kính lạy Đức Hiện Thiên Chí Tôn Kim Quyết Ngọc Hoàng Thượng đế.
Con kính lạy Mẫu Thượng Thiên Đức Chí Tôn.
Hương tử con là: ……………………………..
Cùng đồng gia quyến đẳng, nam nữ tử tôn……………………
Ngụ tại: ……………………………………………
Hôm nay là ngày ………….. tháng ……………. năm ………………….
Chúng con chắp tay kính lễ khấn đầu vọng bái Mẫu Thượng Thiên. Cúi xin Thánh mẫu Thượng Thiên, rủ lòng thương xót phù hộ độ trì cho chúng con được toàn gia an khang, bách sự như ý, vạn sự tốt lành.
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!