Rất nhiều người quan tâm đến Quan Lớn Đệ Tam - một vị thần thiêng liêng của đất Việt, nhưng không phải ai cũng hiểu rõ về sự tích phía sau vị thần này, hôm nay hãy cùng chúng tôi tìm hiểu rõ qua bài viết này nhé
Mục lục bài viết
1. Quan Lớn Đệ Tam là ai?
Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ còn được gọi là Thái Tử Đệ Tam. Đại Quan là con trai thứ ba của Bát Hải Động Đình, được cha rất nuông chiều nên được giao cho quản lý Long Giai Động Đình, bên cạnh cha.
Hầu hết những người hầu của Tứ Phủ, khi hầu Quan Lớn, ai cũng phải hầu Quan Đệ Tam. Ông có thể được coi là quan tài nổi tiếng và tài ba nhất. Khi xuống đồng, ông mặc áo trắng thêu rồng, hổ; lễ thắp hương, lễ khánh thành, lễ chứng giám và múa kiếm đôi. Khi có tiệc khai hội mở đền, người ta viếng Thoải Phủ (có rồng phượng mặc áo ba đầu chín đuôi, toàn màu trắng). Trong các quan lớn, vì có uy tín đứng đầu nên quan lớn thứ ba cũng được lập khắp nơi để thờ phụng.
2. Sự tích Quan Lớn Đệ Tam:
Quan Đế Tam vốn là con trai thứ ba của vua cha Bát Hải Động Đình, rất được vua cha yêu thương nên đã trao cho ông quyền cai quản Long Giai Động Đình, bên cạnh cha.
Đời Hùng Vương, giặc ngoại xâm đánh phá miền núi, theo lệnh vua, ông cùng hai người em (tương truyền là hai người bạn thân) lên giúp vua Hùng cầm quân đánh giặc. Ở vùng đất Hà Nam, người đời gọi là “Tam Vị Đại Vương”, trong đó, Đệ Tam Đại Quân là con cả trong ba người.
Nhưng có truyền thuyết cho rằng, dưới thời Hùng Vương, chỉ có Quan Tam Phủ xuất thân danh gia vọng tộc, trở thành danh tướng thống lĩnh ba châu. Trong một trận quyết chiến với giặc, ông đã hy sinh (thân và xác trôi dạt vào hai bờ sông Lục Đầu) và về Long Cung tạ ơn.
3. Đền Thờ Quan Lớn Đệ Tam:
Trong hàng ngũ quan lớn, quan lớn thứ ba là danh tướng nổi tiếng nhất. Ông xếp thứ ba sau thứ nhất và thứ hai và trước thứ tư và thứ năm. Nên có bàn thờ ở khắp mọi nơi. Trong đó nổi tiếng nhất là chùa Lảnh Giang.
3.1. Đền Lảnh Giang thờ quan Đệ Tam ở Hà Nam:
Đền Lảnh Giang là một trong những ngôi chùa chính của quan thứ ba, tương truyền nơi đây quan thấp trôi dạt về được nhân dân xây dựng.
Trong báo cáo ngày 16-5-1996, Bảo tàng Lịch sử tỉnh Nam Hà (cũ) nhận xét: Đền Lảnh Giang là di tích thờ 3 vị tướng họ Phạm thời Hùng Duệ Vương có công đánh giặc Thục. Bảo vệ giữ gìn biên cương núi rừng của Tổ quốc.
Khi đất nước hòa bình, các anh là những người quan tâm, chăm lo sản xuất, làm cho đời sống nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc. Đền Lảnh Giang là một công trình kiến trúc quy mô, hoành tráng, bề thế. thấm nhuần nghệ thuật kiến trúc và xây dựng truyền thống của dân tộc. Ngoài ra còn có nhiều cổ vật có giá trị nghệ thuật cao.
Đền Lảnh Giang (Mộc Nam, Duy Tiên, Hà Nam): Đền Lảnh Giang hay còn gọi là Lảnh Giang Linh Từ, tọa lạc tại thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên. Đình thờ ba vị thần nổi tiếng là ba anh em Quan Lớn Đệ Tam và hai công chúa Tiên Dung, Chử Đồng Tử. Đây là một công trình kiến trúc đồ sộ và hùng vĩ. Tam quan được xây dựng theo kiểu chồng diêm có tám mái, các mái cong thanh thoát, đắp nổi hình đầu rồng, đan xen là các hình nguyệt, lá cách điệu mềm mại. Trước mặt Tam Quan là một hồ nước hình bán nguyệt, mặt hồ phẳng lặng như một chiếc bàn ngọc được tô điểm bởi những bông hoa súng đỏ rực. Giữa hồ, một ngôi bảo tháp tĩnh lặng được nối với cửa chùa bằng chiếc cầu uốn cong hình lưỡi rồng hướng vào đất liền, ẩn mình dưới bóng cây si cổ thụ ngàn năm tuổi. Đền Lảnh Giang được xây dựng theo kiểu nội công và ngoại quốc, gồm 3 tòa, 14 gian, hai bên có nhà khách, gian thờ, 4 mặt có tường gạch bao quanh. Trong đền có nhiều đồ thờ tự có giá trị như tượng công chúa Tiên Dung, long đình, tượng 3 vị tướng thời Hùng Vương được chạm trổ công phu theo phong cách thời Lê.
Ngoài ra, chùa còn lưu giữ được 2 cỗ kiệu của đình, miếu và nhiều hoành phi, câu đối, hương án. Đến với đền Lảnh Giang, chúng ta có thể đến đền Cổ Bội Phủ ngay cạnh đền Lảnh Giang. Xung quanh đền Lảnh Giang còn có đền Vua Cha thờ vua Lê; đền thờ Ngọc Hoa công chúa, em gái công chúa Tiên Dung; Đền thờ Trần Khánh Dư, tướng của Trần Hưng Đạo.
Xích Đằng (Hưng Yên): Toàn bộ ngôi chùa được xây dựng trên một khu đất rộng, kiến trúc cao ráo, thoáng đãng càng tôn lên vẻ uy nghiêm của ngôi chùa. Tam quan được xây dựng theo kiểu hai tầng tám mái, là sân chùa có đôi rùa đá và chũm chọe bằng đá để giữ vẻ uy nghiêm cho ngôi chùa. Cung thứ nhất là ban công của các quan, tiếp đến là cung thứ ba thờ Đức Thánh Mẫu, cung thứ ba thờ Quan Lớn Đệ Tam và cuối cùng là cung cấm đặt tượng đồng của Ngài. Ngoài các bàn thờ chính còn có các bàn thờ khác như: Bàn thờ Chúa Sơn Trang, Bàn thờ vua Trần, bàn thờ ông Hoàng Mười, Hoàng Bảy… Trong đền hiện có nhiều hiện vật có giá trị: Hai quả chuông đồng liễn đối, hệ thống câu đối, câu đối sơn son thếp vàng ca ngợi công đức của Người với dân với nước. Trong khuôn viên chùa còn có những cây cổ thụ là sự kết hợp của năm loại cây: đa, sung, khế, cọ, thông và cho bóng mát.
3.2. Đền xích Đằng thờ quan Đệ Tam ở Hà Nam:
Ngôi đền quan trọng thờ quan Đệ Tam tiếp theo là đền Xích Đằng (hai ngôi đền này chỉ cách nhau cây cầu Yên Lệnh nối hai bờ sông Lục Đầu) là nơi thờ vị tướng của ông.
3.3. Đền quan Tam Phủ ở Hàng Cót:
Đây cũng là một địa điểm rất nổi tiếng ở Hà Nội, vào những ngày lễ lớn thường có rất nhiều thanh đồng đến cửa chùa.
4. Hầu giá Quan Lớn Đệ Tam:
Những người hầu của Tứ phủ, khi hầu hạ các quan lớn, ai cũng phải hầu hạ Tam quan. Ông là một trong những vị quan lớn nổi tiếng tài giỏi.
Khi xuống đồng, ông mặc áo trắng thêu rồng, hổ, phát đất, thắp hương, múa song kiếm. Khi có tiệc khai trương, người ta mời người đến Thoải Phủ (trang phục rồng, phượng, tam đầu, chín đuôi… toàn màu trắng).
5. Bản văn Quan Lớn Đệ Tam:
5.1. Hát văn khi Quan Lớn Đệ Tam ngự đồng:
“Đản hai tư tháng sáu xưng thần
Khắp Trung, Nam, Bắc muôn dân đảo cầu”
Tượng Quan Lớn Đệ Tam thoải phủ giáp vàng
Khi ông về ngự đồng, khai quang chứng đàn mã sớ điệp, văn quan đệ tam thường hát đoạn:
“Lòng thành thắp một chiện nhang
Tấu về Thoải Phủ các ban các toà
Thiên Đình, Thoải Phủ, Diêm La
Tấu về Thoải Phủ Vua Cha Động Đình
Vốn xưa là chúa Thủy Tinh…”
Ngoài ra để ca ngợi tài đức công lao của Quan lớn giám sát, văn quan lớn đệ tam cũng hát:
“Giáp bạc bao phen rực lửa hồng
Xông pha trăm trận cũng như không
Ra tay cứu nước trừ nguy biến
Tiếng để ngàn thu với non sông […]
Gươm thần ba thước tay ngang dọc
Tài dậy trời Tây, chí lấp bể Đông”
5.2. Bản văn Quan Lớn Đệ Tam:
Hay khi nói về những cuộc dạo chơi khắp sơn thoải đại giang của ông bản văn quan đệ tam thường hát theo điệu dọc:
“Chiếc thuyền nan nổi dòng Xích Bích
Đua mái chèo du lịch bốn phương
Có phen tuần thú sông Thương
Trở ra tỉnh Bắc qua giang Lục Đầu[…]
Có phen chơi ngã ba Bạch Hạc
Bạn loan ngồi đàn hát vui chơi
Dạo xem phong cảnh mọi nơi
Qua hang Anh Vũ sang chơi nước người”
Và còn một đoạn rất hay nói về tài phép của quan:
“Hoá tức thì lâu đài điện các
Dâng nước về Thuỷ Quốc một khi
Có phen lấy ngọc lưu ly
Đùng đùng dâng nước phép thì ai đang”
5.3. Bản khấn Quan Lớn Đệ Tam cho khách thập phương:
Nam mô a di dà phật (3 lần)
Con lạy chín phương trời, con lạy mười phương đất, con lạy chư phật mười phương, mười phương chư phật.
Con lạy toàn thể chư phật, chư tiên, chư thánh.
Con lạy: ………..( tên thánh chủ bản đền. Ví dụ, đến đền Quan Đệ Tam ta khấn: Con lạy Quan lớn Đệ Tam tối linh)
Đệ tử con tên là:…………. tuổi:……….
Ngụ tại:……………………………
Hôm nay là ngày…., Chúng con đến đây có chút hương hoa, phẩm quả, lễ mặn (chú ý dâng gì thì kêu đó nghe – không có lễ mặn mà kêu lễ mặn là phải tội đó, nên nhớ không bày lễ mặn ở cúng Phật) xin dâng lên các chư tiên, chư thánh để cảm tạ ơn đức của các ngài đã phù hộ độ trì cho chúng con suốt thời gian qua. Vừa qua, được sự lưu tâm độ trì của các ngài mà công việc (Nếu đã xin việc gì cụ thể mà thành công thì xin trình bày ) của con đã hanh thông vẹn tròn. Chúng con xin được cảm tạ và lễ tạ tất cả các Ngài.
Hôm nay, chúng con tới đây với tất cả lòng thành kính xin các ngài phù hộ độ trì cho con các việc sau: ( Nêu cụ thể các việc cần xin, các khó khăn có thể gặp phải và có thể cả hướng định giải quyết ra sao).
Một lần nữa, thay mặt gia chung chúng con, con xin các ngài giang tay cứu giúp cho chúng con. Chúng con xin đa tạ …( tên vị thánh bản đền) và toàn thể các chư tiên, chư thánh.
Nam mô a di dà phật (3 lần).