Nhằm giúp các bạn học sinh có nhiều kiến thức và nắm vững nội dung bài học, bài viết dưới đây chúng minh gửi đến bạn đọc bài viết phân tích 2 câu cuối bài Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão siêu hay. Cùng tham khảo bài viết của chúng mình nhé.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích 2 câu cuối bài Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão:
1.1. Mở bài:
Giới thiệu khái quát về bài thơ “Tỏ lòng” và tác giả Phạm Ngũ Lão
Giới thiệu hai câu thơ cuối của bài thơ “Tỏ lòng”
1.2. Thân bài:
– Ở hai câu thơ cuối, nhà thơ tập trung thể hiện khát vọng cao cả và nỗi buồn của “kẻ làm trai”
+ Trong xã hội xưa, đàn ông thường coi việc trả nợ danh vọng là mục tiêu, khát vọng lớn nhất của cuộc đời.
+ Phạm Ngũ Lão còn đề cao lý tưởng trung thành với vua và lòng yêu nước, khát vọng lập công của con người.
+ Khát vọng về công danh của Phạm Ngũ Lão không chỉ thể hiện tinh thần trách nhiệm cao cả mà còn bộc lộ nhân cách cao quý của một con người, một vị tướng có khát vọng lớn lao cứu nước, cứu đời.
+ Nhận ra món nợ danh vọng chưa trả được “Nam nhi vị liễu công danh trái” nhà thơ luôn cảm thấy day dứt.
+ “Vũ Hầu” được nhắc đến trong câu thơ trên chính là Khổng Minh Gia Cát Lượng, một người thông minh, mưu lược phi thường, ông cũng được coi là biểu tượng đẹp đẽ cho ý chí của một người đàn ông.
+ Phạm Ngũ Lão cảm thấy vô cùng hổ thẹn vì nghĩ rằng mình vẫn chưa trả hết nợ danh dự, vẫn chưa làm tròn trách nhiệm của một người đàn ông đối với đất nước, với nhân dân.
+ Nỗi buồn đó cũng đáng trân trọng, đó là cái thẹn của một người có tài năng, có nhân cách, có trách nhiệm với cuộc sống.
1.3. Kết bài:
Cảm nghĩ về 2 câu thơ cuối bài thơ “Tỏ lòng”
2. Phân tích 2 câu cuối bài Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão siêu hay:
Bình luận về Phạm Ngũ Lão, sách Đại việt sử ký toàn thư viết: “Ngũ Lão xuất thân trong hàng quân ngũ nhưng rất thích đọc sách, là người phóng khoáng, có chí lớn, thích ngâm thơ, tựa như không để ý đến việc võ binh. Nhưng quân ông chỉ huy, thực là đội quân phụ tử, hễ đánh là thắng”. Dường như trong thơ ông cũng có lý tưởng, khát vọng tạo dựng tên tuổi trong cuộc sống, được thể hiện qua tác phẩm “Tỏ lòng”.
Bài thơ “Tỏ lòng” khắc họa vẻ đẹp của một con người có sức mạnh, lý tưởng, khát vọng, nhân cách cao quý, tinh thần anh hùng trong hào khí Đông A. Ta có thể tìm thấy hình ảnh của chất trữ tình trong tính cách của một người đàn ông lão luyện trên chiến trường. Không có từ ngữ nào có thể diễn tả hết được sức mạnh và tinh thần của quân đội nhà Trần. Tuy nhiên, dù hùng mạnh đến vậy, trong lòng các tướng lĩnh luôn có một cảm giác:
Nam nhi vị liễu công danh trải,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
(Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu)
Vào thời Trung cổ, trả nợ danh là khát vọng, hoài bão, là cuộc sống của hầu hết đàn ông. Có hai cách để trả nợ công danh: học hành chăm chỉ để đỗ kỳ thi lên chức quan hoặc chiến đấu để cống hiến cho đất nước. Điều này là do ảnh hưởng của Nho giáo. Với Phạm Ngũ Lão, nhận thức được thời cuộc hỗn loạn, ông đã chọn con đường chiến đấu trên chiến trường. Ông coi nợ danh là món nợ mình nợ vua. Không trả không có nghĩa là bất lực, bất tài, không lập được công, mà chỉ là chưa tới thời cơ thích hợp. Cái “nợ công danh” đó, chỉ cần có cơ hội, ông sẽ sẵn sàng trả. Thông qua ý thức trả nợ danh, khát vọng cháy bỏng, mãnh liệt của một người nam nhi tâm toàn ý muốn trả nợ cho đất nước đã xuất hiện.
“Vũ hầu” ở đây ám chỉ Gia Cát Lượng, người đã có công giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán. Đây là người đã dành trọn cuộc đời mình cho nhà Thục và là biểu tượng của khí phách nam nhi. Phạm Ngũ Lão cảm thấy hổ thẹn khi nghe câu chuyện về Vũ hầu vì trước hết, ông cảm thấy mình vẫn chưa lập được danh, chưa trả được nợ cho quê hương, đất nước. Mặt khác, ông cảm thấy “hổ thẹn” khi đứng trước tấm gương sáng ngời về nhân cách và tài năng của Gia Cát Lượng. Cái “thẹn” đó là sự kính trọng đối với Vũ hầu và đồng thời là khát vọng của một người muốn noi theo bước chân của người xưa, trung thành phụng sự đất nước và trả được nợ danh. Nếu ông chưa lập được danh thì nói như vậy cũng dễ hiểu. Nhưng khi ông đã hết lòng vì đất nước mà vẫn nói thẹn thì phải thấy được khát vọng của nhân vật viết nên câu chuyện phải lớn đến nhường nào. Hai câu thơ sau cho ta thấy khát vọng, hoài bão của những người anh hùng và nỗi “thẹn” của người quân tử. Ta cũng có thể thấy cách ứng xử nhân văn này trong bài thơ của Cao Bá Quát:
“Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”
(Cả đời chỉ biết cúi đầu bái lạy hoa mai).
Hay trong thơ Nguyễn Khuyến:
“Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”
hay:
“Ơn vua chưa chút đáp đền
Cúi trông thẹn đất, ngửa trông thẹn trời”
Phạm Ngũ Lão là một vị tướng tài ba nhưng lại có tấm lòng rất nhạy cảm. “Tỏ lòng” là một bài thơ trữ tình thể hiện tinh thần anh hùng và hoài bão tuổi trẻ. Bài thơ có tác dụng giáo dục sâu sắc về quan điểm sống và lối sống tích cực cho thế hệ trẻ mọi thời đại. Nó đã tôn vinh vị tướng trẻ Phạm Ngũ Lão, cả về văn chương lẫn võ thuật, đáng để noi gương cho thế hệ tương lai.
3. Phân tích 2 câu cuối bài Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão siêu ý nghĩa:
Phạm Ngũ Lão được biết đến là một vị tướng có nhiều đóng góp to lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông. Bên cạnh đó, ông còn thích đọc sách, làm thơ và được coi là người tài giỏi cả về văn chương và võ thuật. Tác phẩm “Tỏ lòng” đã thể hiện vẻ đẹp của hình ảnh người anh hùng hiên ngang, có lý tưởng lớn, nhân văn, đồng thời phản ánh tinh thần anh hùng thời Đông A với sức mạnh và khí phách siêu phàm.
Nếu ở hai câu thơ đầu, tác giả ca ngợi lòng dũng cảm của nhân dân và quân lính nhà Trần qua hình ảnh người anh hùng chiến đấu ngang tài ngang sức, thì ở hai câu thơ cuối lại như một lời tâm sự của đấng nam nhi, danh vọng và sự nghiệp như một món nợ của cuộc đời.
Nam nhi vị liễu công danh trải,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
(Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu)
Là một chiến binh xuất sắc của đội quân anh hùng, Phạm Ngũ Lão ý thức rõ trách nhiệm của bản thân.
Trước đây, khi viết về hoài bão làm trai, độc giả đã bắt gặp những câu thơ vô cùng quen thuộc của Nguyễn Công Trứ: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông. Cũng đồng điệu với tâm hồn nhiều người đương thời, Phạm Ngũ Lão rất coi trọng lý tưởng trung thành với vua và lòng yêu nước. Vì vậy, ông cho rằng làm người phải đền ơn, và nợ công danh ở đây là làm điều gì đó có đóng góp cho đất nước: “Nam nhi vị liễu công danh trái”. Lý tưởng danh phận đó thể hiện quan điểm tiến bộ và nhân cách cao quý của một vị tướng muốn giúp đất nước, giúp đời. Nghĩ rằng mình vẫn chưa trả hết nợ danh phận, tác giả đã trăn trở và kiên quyết trả lời: “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”.
Vũ Hầu là Gia Cát Lượng, một người tài đức của nhà Hán, người có công lớn trong công cuộc khôi phục triều đại của Lưu Bị. Ông cảm thấy “thẹn” khi so sánh mình với cha ông, và cảm thấy mình không thể sánh bằng họ. Mong muốn đạt được nhiều thành tựu hơn của ông được thể hiện rất khiêm nhường khi đặt mình bên cạnh vị mưu thần Gia Cát Lượng. Âm thanh bình thản của bài thơ thể hiện mong muốn đạt được thành tựu của Phạm Ngũ Lão và ý chí cực kỳ tiến bộ của ông để trở thành một người đàn ông.
Với những ngôn ngữ cô đọng, súc tích và hình ảnh biểu cảm, “Tỏ lòng” khắc họa vẻ đẹp của con người thời Trần với sức mạnh, lý tưởng và tính cách cao thượng, đồng thời phản ánh tinh thần anh hùng của thời đại. Âm thanh mạnh mẽ để lại dư âm trong lòng người đọc, nhắc nhở thế hệ trẻ chúng ta đừng bao giờ quên đặt ra lý tưởng cao cả để sống một cuộc sống tươi đẹp và hữu ích hơn.