Bài viết dưới đây là khái quát Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng một nhà văn nổi tiếng trong nền văn học của Việt Nam. Ông đã góp phần xây dựng sự phong phú trong nền văn học Việt Nam. Sau đây mời các bạn cùng tìm hiểu về nhà văn này.
Mục lục bài viết
1. Tiểu sử cuộc đời của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng:
Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) là một nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng của đất nước Việt Nam. Ông đóng góp cho nền văn học nước nhà nhiều vở kịch nổi tiếng như Vũ Như Tô, Bắc Sơn, Sống mãi với kinh đô,…
Ông được sinh ra trong một gia đình nho sĩ tại làng Dục Tú, Từ Sơn, Bắc Ninh, nay thuộc xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội.
Năm 1930, ông bắt đầu tham gia hoạt động yêu nước của thanh niên, sinh viên Hải Phòng. Năm 1935, ông trở thành Bí thư Đoàn Thanh niên Hải Phòng sau đó trở về Hà Nội. Năm 1938, ông tham gia Hội Truyền bá Quốc ngữ và phong trào sinh viên tại Hải Phòng. Năm 1943, ông tham gia Tổ Văn hóa cứu quốc bí và được bầu làm Tổng thư ký Hội Truyền bá Quốc ngữ Hải Phòng. Sau đó, ông tiếp tục công tác tại Hà Nội, Nam Định, Phúc Yên.
Vào tháng 6 năm 1945, Nguyễn Huy Tưởng tham gia Ban biên tập tạp chí Tiền phong của Văn hóa cứu quốc. Ông là đại biểu Quốc hội khóa I năm 1946, cũng là năm vở kịch Bắc Sơn của ông lần đầu tiên được trình diễn tại Nhà hát Lớn, thu hút sự chú ý lớn của bạn đọc.
Tháng 7, ông được bầu làm Phó Tổng thư ký Hội Văn hóa toàn quốc Việt Nam. Tháng 12 năm 1946, đúng ngày toàn quốc kháng chiến, ông tổ chức và đưa Đoàn nghệ thuật kháng chiến vào
Nguyễn Huy Tưởng là người sáng lập và cũng là giám đốc đầu tiên của Nhà xuất bản Kim Đồng.
2. Phong cách sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng:
Mặc dù đến với văn chương khá muộn, không có năng khiếu thiên bẩm, nhưng với nghị lực và đam mê không ngừng của bản thân Nguyễn Huy Tưởng, ông đã đạt được nhiều thành công trong sự nghiệp văn chương của mình. Văn chương của ông luôn mộc mạc, giản dị và gần gũi với cuộc sống con người.
Văn chương của Nguyễn Huy luôn tràn ngập chất thơ cuộc sống cùng với những bài ca về tình yêu thương con người, đồng loại. Cảm hứng lớn nhất trong các tác phẩm của ông là khai thác lịch sử. Ông viết những bài thơ thể hiện lòng yêu nước.
Tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Huy Tưởng là tác phẩm “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” trích từ vở kịch Vũ Như Tô. Tác giả đã đặt một bi kịch vào nhân vật Vũ Như Tô, ông đặt ra mối quan hệ giữa thơ ca, nghệ thuật và cuộc sống cần phải hài hòa. Có thể khẳng định rằng các yếu tố trong tác phẩm này có thể tạo nên một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn, lôi cuốn người đọc đến từng chi tiết nhỏ. Nghệ thuật không cần phải là thứ gì đó quá xa vời, nó cần phải gắn chặt với cuộc sống thường nhật của con người. Qua đó, tác phẩm đề cao vai trò của người nghệ sĩ, xã hội cần quan tâm đến những tài năng hiếm có, để họ có thể đóng góp nhiều hơn nữa cho đất nước.
Quan điểm của Nguyễn Huy Tưởng: “Chỉ bằng cách viết chữ quốc ngữ, một người bình thường như tôi muốn bày tỏ lòng yêu nước của mình”.
3. Vinh danh:
Năm 1995, Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội đã đặt tên một con phố của thủ đô là phố Nguyễn Huy Tưởng, nối từ phố Vũ Trọng Phụng cắt qua phố Nguyễn Tuân đến Khuất Duy Tiến. Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 1996.
4. Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Huy Tưởng:
Đêm hội Long Trì, Cột đồng Mã Viện, Những người ở lại, Tìm mẹ, Sống mãi với thủ đô, Bốn năm sau, Là cờ thêu sáu chữ vàng, Vũ Như Tô, Ký sự Cao Lạng, truyện Anh Lục, Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng,…
5. Phân tích tác phẩm “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” của Nguyễn Huy Tưởng:
Nguyễn Huy Tưởng là một nhà viết kịch tài năng, kiệt xuất nhất của văn học Việt Nam. Trong số các tác phẩm tiêu biểu của ông phải kể đến đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài”, kể về câu chuyện xoay quanh nhân vật Vũ Như Tô, một kiến trúc sư tài năng, nhưng vì mượn quyền lực và tiền bạc của nhà vua để thực hiện hoài bão của mình nên đã rơi vào bi kịch.
Bi kịch có thể hiểu là một tình huống chứa đựng sự trớ trêu, dẫn đến đau thương. Bi kịch đó khiến con người không thể giải quyết được, buộc họ phải tìm đến cái chết, hoặc chấp nhận cái chết. Chỉ khi đó bi kịch đó mới có thể giải quyết được.
Vũ Như Tô cũng rơi vào một bi kịch không thể giải quyết được, ông vốn là một nghệ sĩ tài năng, luôn ấp ủ những hoài bão nghệ thuật cao cả, nhưng hình mẫu ấy lại mâu thuẫn với hiện thực khắc nghiệt. Đó chính là điều đã đưa ông vào bi kịch.
Trước hết, Vũ Như Tô là một người có tài năng phi thường, một kiến trúc sư tài ba. Xây Cửu Trùng Đài vừa là cơ hội để ông thể hiện tài năng, vừa giúp ông thực hiện được hoài bão lớn lao, đây chính là đam mê cả đời của ông. Vũ Như Tô cũng là người có bản lĩnh, không sợ cường quyền. Lê Tương Dực yêu cầu xây Cửu Trùng Đài nhưng ông không khuất phục, ngay cả khi bị dọa sẽ giết chết, Như Tô vẫn không chấp nhận. Chỉ sau khi nghe Đan Thiềmkhuyên can, Vũ Như Tô mới đồng ý xây Cửu Trùng Đài để tô đẹp cho đất nước.
Nhưng thực tế cuộc sống lại hoàn toàn trái ngược với lý tưởng cao cả của ông. Nếu xây Cửu Trùng Đài với mong muốn đất nước tươi đẹp hơn thì tên vua vô đạo Lê Tương chỉ muốn dùng công trình nghệ thuật ấy để thỏa mãn dục vọng, ăn chơi hưởng lạc của hắn. Bởi vì Vũ Như Tô không nhận ra rằng, khi xây Cửu Trùng Đài, ông đã mâu thuẫn lớn với nhân dân lao động. Cửu Trùng Đài được xây nên từ công sức, mồ hôi, xương máu, từ tiền bạc, của cải của nhân dân. Như Tô từ chỗ cùng phe với nhân dân lao động, đã trở thành kẻ thù, một người bị nhân dân căm ghét tận xương tủy. Hoàn cảnh khốn cùng tất yếu dẫn đến các cuộc nổi loạn phá hủy Cửu Trùng Đài và giết chết người đã tạo ra nó.
Không chỉ vậy, bi kịch của Vũ Như Tô còn là một bi kịch mơ mộng. Cho đến phút cuối cùng của cuộc đời, trước khi bị dẫn đến pháp trường, bản thân Vũ Như Tô vẫn không hiểu tại sao lại phá Cửu Trùng Đài, mình đã làm gì để nhân dân căm ghét mình. Ông chỉ có một mục tiêu duy nhất, đó là xây dựng một “cảnh Bồng Lai” cho đất nước. Ông trở thành kẻ độc ác, kẻ cô đơn nhất trong quá trình xây dựng Cửu Trùng Đài, và khi tác phẩm nghệ thuật của mình bị phá hủy, ông đã suy sụp, tuyệt vọng.
Bi kịch của Vũ Như Tô xuất phát từ nhận thức sai lầm của ông, không tìm thấy mối liên hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Vũ Như Tô luôn đắm chìm trong đam mê sáng tạo nghệ thuật, ông chỉ hướng đến một ham muốn duy nhất của mình, mượn tay cái ác để xây dựng Cửu Trùng Đài. Khát vọng của ông cao cả nhưng lại không phù hợp với hoàn cảnh thực tế. Chính điều đó đã khiến ông trở thành phe chống lại nhân loại, trở thành cái ác và là mục tiêu cần phải tiêu diệt. Vũ Như Tố là một ví dụ điển hình của một nghệ sĩ tài năng nhưng lại đi ngược lại lợi ích của nhân dân và rơi vào bi kịch bi thương.
Qua bi kịch của Vũ Như Tô chúng ta thấy ông là đại diện cho một lớp nghệ sĩ tài năng, có hoài bão nhưng lại xa rời thực tế nên đã rơi vào bi kịch của một nỗi đau đớn tột cùng. Cái chết của ông là bài học cho nhiều thế hệ nghệ thuật sau này, nghệ thuật phải luôn gắn bó chặt chẽ với nhân dân, xuất phát từ nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân. Chỉ khi hai mặt này được hài hòa thì nghệ thuật và nghệ sĩ mới có thể tồn tại và phát triển.