Tín ngưỡng thờ Mẫu xuất phát từ khát vọng của con người về cuộc sống ấm no, hạnh phúc, là nét đẹp trong văn hóa tâm linh thấm sâu trong tâm thức mỗi người dân Việt Nam. Hãy cùng tìm hiểu nguồn gốc cũng như ý nghĩa của tín ngưỡng thờ Mẫu - một tập tục phổ biến mang đậm chất bản địa tồn tại cùng chiều dài lịch sự dân tộc, thông qua bài viết dưới đây nhé.
Mục lục bài viết
1. Đạo mẫu là gì?
Đạo Mẫu là tín ngưỡng bản địa lâu đời, thỏa mãn tâm lý nông dân lan tỏa cầu mong sự sinh sôi nảy nở từ xa xưa, đã tồn tại từ lâu đời. Thời phong kiến, nó không chỉ thỏa mãn nhu cầu của nông dân, nông thôn mà còn cả tầng lớp thương gia ở các đô thị, đặc biệt là vào thế kỷ 16 và 17. Ngày nay nó vẫn còn hướng phát triển đầy tiềm năng để đáp ứng nhu cầu phát triển và đô thị hóa, hiện đại hóa nền kinh tế thị trường của Việt Nam. Đạo Mẫu phổ biến ở đồng bằng, đô thị và miền núi, tạo nên một nét khá nổi bật trong bức tranh tổng thể rất đa dạng, phong phú về tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam. Đây là một tín ngưỡng có nguồn gốc thực sự nguyên thủy, mặc dù trong quá trình phát triển, nó đã hấp thụ những ảnh hưởng của Đạo giáo, Phật giáo và thậm chí cả Nho giáo. Thánh Mẫu được tôn thờ là Mẫu (Mẹ) là đấng sáng tạo và duy trì vũ trụ và con người, là nơi con người gửi gắm những ước vọng, nguyện vọng về cuộc sống trần thế và đạt được sức khỏe, hạnh phúc (Phúc Lộc Thọ).
Hệ thống đền thờ tuy đa thần (khoảng 60 ngôi trở xuống) nhưng đứng đầu và bao trùm là Thánh Mẫu, tuy Thánh Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện trong đền vào thời gian muộn (từ thế kỷ XV – XVI), nhưng lại chiếm vị trí chủ đề trong điện thờ Mẫu. Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã trần thế hóa đạo Mẫu. Trong điều kiện của xã hội Nho giáo cuối thời phong kiến, Thánh Mẫu đã đi vào đời sống nhân dân, ăn sâu vào xã hội và đời sống tâm linh của mỗi con người Việt Nam. Đạo Mẫu là tín ngưỡng bản địa của người Việt nhưng lại thể hiện khả năng kết hợp tôn giáo và tín ngưỡng cao, làm cho hệ thống điện thần và bộ mặt văn hóa đa sắc tộc, đa văn hóa. Hệ thống thần linh có nhiều vị thần của các dân tộc thiểu số nên nó cũng lồng ghép các hoạt động văn hóa của các dân tộc thiểu số đó vào các nghi lễ của tôn giáo đó (y phục, âm nhạc, múa hát…).
2. Nguồn gốc của đạo Mẫu Việt Nam:
Tín ngưỡng thờ Mẫu có từ rất lâu đời do dân tộc ta còn theo chế độ mẫu hệ. Tuy nhiên, phải đến khi Thánh Mẫu Liễu ra đời thì tín ngưỡng thờ Mẫu mới chính thức trở thành Quốc đạo của Việt Nam. Các vua Lê là người có công kết hợp tục thờ Mẫu của người Việt ở miền xuôi với tục Sơn Trang của các dân tộc thiểu số miền núi để hình thành nên Điện thờ Thánh Mẫu. Trong đó thần chủ của đạo Mẫu là Thánh Mẫu Liễu Hạnh và chúa sơn trang của người miền núi là Mẫu Thượng Ngàn.
Đạo Mẫu Việt Nam chính thức ra đời vào thế kỷ XV. Đặc biệt vào ngày giáng thế đầu tiên của Thánh mẫu Liễu Hạnh (1434). Cho đến nay đã hơn 600 năm trôi qua. Điều này chứng tỏ Đạo Mẫu tồn tại sau Phật giáo. Tuy nhiên, tục thờ Mẫu của người Việt đã ra đời từ hàng ngàn năm trước, thậm chí trước khi Đức Phật nhập niết bàn (hơn 2561 năm) nhiều năm.
3. Các dạng thức thờ Mẫu:
3.1. Thờ Mẫu ở miền Bắc:
Từ thời tiền sử cổ đại đến thời phong kiến, một số nữ thần đã được xác định niên đại và lịch sử hóa với tư cách là các Mẫu thần, tương ứng với giai đoạn từ thế kỷ XV trở về trước với việc phong thần của nhà nước phong kiến. Các Mẫu thần với các tên gọi như Quốc Mẫu, Vương Mẫu, Thánh Mẫu như hiện tượng Mẹ Âu Cơ, Quốc Mẫu Tây Thiên, Thánh Gióng, Tứ Thánh Hoàng Hậu, Đinh Triều Quốc Mẫu…
Từ khoảng thế kỷ XV, hình thức thờ Mẫu tam phủ, tứ phủ được định hình và phát triển mạnh. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện những nhân vật như Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Mẫu Địa, Cô Đôi Thượng Ngàn,… với các nghi lễ chịu ảnh hưởng một phần của Đạo giáo.
3.2. Thờ Mẫu ở miền Trung:
Hình thức thờ Mẫu này chủ yếu ở Nam Trung Bộ, hình thức thờ Mẫu chủ yếu ở đây không chỉ là thờ Mẫu với các Thánh Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ mà nó có hơi khác so với Bắc Bộ (Hầu đồng Huế), có hình thức thờ nữ thần và thờ Mẫu thần. Một hình thức thờ nữ thần như thờ tứ vị Thánh nương, Bà Ngũ Hành và một hình thức thờ nữ thần như Thiên Y A Na, Po Nagar, Bà Hỏa (Hỏa Tinh Thánh Mẫu) ở làng Tân Trà (An Đôn, huyện Hải Lăng, Quảng Trị) sau lưu truyền xuống phía nam.
Phật giáo là một tôn giáo dân gian của Huế kết hợp tín ngưỡng Lão giáo lỗi thời của Trung Quốc với tín ngưỡng thờ Mẫu thần và nhiều tôn giáo và tín ngưỡng khác của người Việt. Tín ngưỡng Thiên Tiên Thánh giáo ở Huế ra đời là do sự hợp nhất của Hội Sơn Nam và Chùa Huệ Nam của triều Nguyễn. Các Sơn Nam Hội là những người gốc Nam Định di cư vào Huế từ thời Tiền Nguyễn. Tín ngưỡng tiêu biểu của hội này là tín ngưỡng thờ mẫu kết hợp với Đạo giáo đã thoái hóa. Điện Huệ Nam vốn là ngôi đền thờ thần Po Nagar của người Chăm. Sau khi tiếp nhận di tích tôn giáo độc đáo từ người Chăm, người Việt đã “đặt” nữ thần PoNagar làm nữ thần Thiên Y A Na, được tôn thờ là “vị thần tối cao”.
3.3. Thờ Mẫu ở miền Nam:
So với miền Bắc, tục thờ nữ thần, thánh mẫu có sự khác biệt nhất định, thể hiện rõ qua tên gọi, nguồn gốc của các vị thần thì ở miền Nam, sự khác biệt rõ nét về hình thức thờ nữ thần rõ ràng hơn. Hiện tượng này có thể được giải thích là do Nam Bộ là một vùng đất mới đối với người Việt, khi di cư đến đây họ mang theo những truyền thống tôn giáo cũ và chịu ảnh hưởng của cư dân sinh sống từ trước tạo nên bức tranh không chỉ đa dạng trong văn hóa mà cat trong tín ngưỡng.
Những Nữ thần được thờ phụng ở Nam Bộ như Bà Ngũ Hành, Tứ vị Thánh nương, Bà Thủy Long, bà Chúa Đông, bà Cổ Tô, bà Cố Hủ,… và những mẫu thần được thờ phụng như Bà Chúa Xứ, bà Đen, bà Chúa Ngọc, bà Thiên Hậu,… Bên cạnh đó, còn các cô linh ứng ở một số nơi như Cô Năm Châu Đốc, Cô Hai Châu Đốc, Cô Hai Hiền (Sa Đéc), Cô Sáu (Côn Đảo).
4. Hầu đồng là gì:
Hầu đồng hay còn gọi là hầu bóng, đồng bóng là một nghi lễ tín ngưỡng dân gian và tôn giáo thờ nữ thần mẹ đạo Mẫu dòng Shaman giáo trong tín ngưỡng dân gian của nhiều dân tộc, trong đó có Việt Nam.
Theo ban Tôn giáo Chính phủ, hầu đồng là một hoạt động tôn giáo rất linh thiêng. Bản chất của hầu đồng, trong quan niệm và thực hành, là việc các vị thần đến hầu đồng để phán truyền, chữa bệnh, ban phúc lành… Lúc này, các ông/bà đồng là hiện thân của vị thần đã nhập vào họ.
Cũng theo Ban Tôn giáo Chính phủ, Hầu Đồng là nghi lễ thờ Mẫu Tứ Phủ (Thiên, Địa, Thoải, Thượng Ngàn hay còn gọi là Nhạc Phủ). Đặc biệt, nghi lễ này thường mang những đặc điểm, sắc thái khác nhau và được thể hiện ở việc thờ cúng các vị thần trong đền.
Như bạn có thể thấy, hiện tại không có định nghĩa cụ thể về hầu đồng, mà nó chỉ là một thuật ngữ chỉ một trạng thái tâm linh chung khi thần Thánh “nhập” vào người ông/bà đồng và thông qua thân xác ông/bà đồng nhằm thể hiện hành động, lời nói, ý muốn truyền đạt.
5. Ai có thể hầu đồng?
Hiện nay, chưa có nghiên cứu cụ thể về việc ai có thể làm hầu đồng, cũng như chưa có câu trả lời chính xác cho câu hỏi ai có thể hầu đồng, nhưng hầu hết người hầu đồng sẽ có căn đồng hay do hệ thần kinh yếu hoặc do gen di truyền trong gia đình.
Những người có cơ địa thần kinh yếu thường bị “nhập” khi đến các đền chùa, phủ, người ta gọi đó là ốp đồng. Những người này được gọi là những người cao số, có số nặng, người hữu duyên với các vị thánh tứ phủ.
Thường xảy ra trường hợp người có căn mà không trình thánh, ra đồng làm việc thì sức khỏe và công việc làm ăn sa sút, chẳng hạn như ốm đau, bệnh tật mà uống thuốc, chạy chữa không khỏi, làm ăn thất bát..
Chỉ khi hầu đồng, sức khỏe của những người đó được phục hồi và mọi việc diễn ra suôn sẻ. Riêng việc hầu đồng thì tùy theo lịch, nhưng thông thường vào ngày giỗ tháng tám, giỗ mẹ tháng ba thì ông bà hầu đồng tổ chức lễ lên đồng.
Tín ngưỡng thờ Mẫu đã trở thành di sản thứ 11 của Việt Nam được UNESCO công nhận là di sản văn hóa tâm linh đại diện của nhân loại. Trong đời sống hiện nay, tín ngưỡng thờ Mẫu được biết đến trong cộng đồng chủ yếu qua khái niệm “Hầu Đồng”, là biểu hiện chủ yếu của tín ngưỡng này. Các tập quán thể hiện các yếu tố văn hóa truyền thống như trang phục, âm nhạc, múa và các trò diễn dân gian sinh ra từ bản sắc văn hóa Việt Nam, được tạo ra, phát triển và lưu truyền qua nhiều thế hệ.