Bài viết dưới đây là tổng hợp các bài văn mẫu Phân tích 10 câu thơ đầu đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích chọn lọc hay nhất. Bài viết sẽ giúp các bạn học sinh có thêm nhiều tài liệu và kiến thức ôn tập. Cùng tham khảo nhé.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý Phân tích 10 câu thơ đầu đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích:
1.1. Mở bài:
– Giới thiệu tác phẩm và đoạn trích:
+ Truyện Kiều là tác phẩm thơ Nôm lớn nhất của tác giả Nguyễn Du.
+ Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn trích hay, nằm trong đoạn Gia biến và lưu lạc
+ Giới thiệu 10 câu thơ đầu đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
1.2. Thân bài:
* Nỗi cô đơn, tủi phận của Thúy Kiều (6 câu đầu)
– “Tiết xuân”: Kiều bị giam cầm chôn vùi tuổi xuân.
– Khung cảnh hoang vắng, lạnh lẽo: núi xa, trăng gần, cồn cát nối tiếp bụi hồng chạy dài phía xa.
=> Nghệ thuật liệt kê, tương phản “trăng xa” / “trăng gần”, phép đảo ngữ, từ láy “bâng khuâng” gợi một không gian thiên nhiên mơ hồ, vắng lặng vắng bóng người.
– Thúy Kiều đau đớn, xót xa cho thân phận:
+ “Mây sớm đèn khuya” gợi ra một chu trình thời gian khép kín, lặp đi lặp lại. Kiều cảm thấy tuyệt vọng, ngậm ngùi trong nỗi cô đơn đến “bẽ bàng”
+ Bốn chữ “như chia sẻ nỗi lòng”: Nỗi đau buồn tủi của Kiều chỉ có thể được chứng kiến và chia sẻ ở đây.
⇒ Dùng bút pháp tạo nên khung cảnh hoang vắng, làm nền để Kiều bộc lộ nỗi lòng.
Trong cảnh cô đơn, trạng thái của Kiều chuyển từ buồn sang nhớ:
– Kiều nhớ Kim Trọng (4 câu tiếp)
+ Nhớ cảnh cùng Kim Trọng uống rượu thề dưới ánh trăng: tác giả dùng từ “ngỡ” – vừa nhớ vừa hình dung ra người tình trước mắt, qua đó bộc lộ nỗi nhớ nhung tận thế. Kiều.
+ Tưởng tượng rằng Kim Trọng cũng đang chờ đợi tin tức của mình: “Tin tức vô vọng chờ đợi ngày mai”.
+ Rồi Kiều giật mình nhớ ra mình thực sự bị “bỏ rơi” không biết tương lai mình sẽ ra sao. Kiều càng nhớ Kim Trọng, nước mắt càng rơi. Số phận: tình yêu của cô sẽ không bao giờ phai nhạt, nhưng danh dự và nhân phẩm của cô đã bị vùi dập, hoen ố, khó có thể gột rửa, không thể sánh bằng tình yêu của Kim Trọng nữa.
=> Tâm trạng buồn bã, tuyệt vọng, ngậm ngùi của nhân vật. Đây vừa là bi kịch tình yêu khi Thúy Kiều và Kim Trọng không được yêu nhau, vừa là nỗi đau về nhân phẩm của người con gái tài sắc vẹn toàn.
1.3. Kết bài:
– Giá trị nội dung: Đoạn trích Đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích thể hiện tâm trạng buồn của Thúy Kiều: nhớ nhà, thương cha, thương người, cảm thương thân phận
– Giá trị nội dung: Các biện pháp nghệ thuật Nguyễn Du sử dụng để miêu tả chân thực nỗi nhớ nhung, vô vọng và dự đoán số phận chìm nổi của Thúy Kiều. Bên cạnh đó còn thể hiện vẻ đẹp của Thúy Kiều qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.
2. Phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích 10 câu đầu hay nhất:
Nguyễn Du là một thiên tài trong lĩnh vực văn học, một cây bút tài hoa và lỗi lạc của nền văn học Việt Nam. Ông được mệnh danh là nhà thơ của các nhà thơ. Truyện Kiều là tác phẩm vĩ đại nhất của Nguyễn Du, là đỉnh cao tinh tế nhất của nghệ thuật thơ ca. Đọc tác phẩm, chúng ta không thể quên trích đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, đặc biệt là 10 câu đầu của trích đoạn đã gây ấn tượng sâu sắc cho độc giả.
Sau nhiều biến cố khủng khiếp: tai họa bất ngờ, cha và anh trai bị cầm tù, tất cả tài sản bị cướp sạch, Kiều đã phải hy sinh tình yêu của mình để báo hiếu với cha mẹ. Thế nhưng nghiệt ngã thay, Kiều bị Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu xanh của Tú Bà để tiếp khách, Kiều đã tuyệt vọng và quyết định tự tử nhưng không chết. Tú Bà tìm cách dỗ dành Kiều và cho Kiều ra ở lầu Ngưng Bích để tìm chồng, nhưng thực chất đó là mưu mô của Tú Bà tìm cách giam lỏng Kiều và chờ đợi cơ hội thích hợp mụ sẽ bắt nàng trở lại lầu xanh tiếp khách.
Lầu Ngưng Bích là điểm dừng chân đầu tiên trong cuộc lưu lạc đầy đau khổ và tủi nhục của nàng. Qua những vần thơ của Nguyễn Du, từng câu từng chữ là nỗi buồn cô đơn của Kiều, là nỗi nhớ sâu sắc của nàng đối với quê hương, gia đình và người thân. Nó cũng cho thấy lòng chung thủy của nàng.
Trước hết, với sáu câu thơ mở đầu của đoạn trích, ta thấy được tâm trạng chất chứa của Kiều. Trước mặt nàng là không gian rộng lớn mênh mông, với những dãy núi, cồn cát bụi bay mù mịt. Thế nhưng Kiều lại phảm giam lỏng ở nơi đây một thân một mình cô đơn, hiu quạnh. Điều đó khiến nàng đau khổ và tủi nhục đến tận cùng cho số phận của mình:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Không gian và thời gian cũng hoàn toàn khép kín, Kiều buồn, cô đơn, lạc lõng giữa lầu Ngưng Bích.
Đến tám câu thơ tiếp theo là nỗi nhớ sâu sắc của Kiều đối với gia đình và người thân. Đầu tiên, nhà thơ để Kiều nhớ về Kim Trọng, về mối tình đẹp nhưng dở dang của nàng. Nàng đã từng uống rượu và hẹn thề cùng chàng Kim dưới ánh trăng nhưng sau đó phải buồn bã trao tình yêu ngọt ngào của mình cho Thúy Vân.
Mặc dù trên đường về Lâm Tri, nàng bán mình cho Mã giám Sinh nhưng trong lòng vẫn nhớ thương Kim Trọng. Trong lòng Kiều hiện lên những lời thề hẹn giữa hai người:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.”
Những lời hẹn ước giữa hai người giờ đây chẳng còn giữ được nữa, tình cảnh của nàng thật éo le. Nàng tưởng tượng cảnh Kim Trọng ngày đêm ngóng trông tin tức của nàng trong vô vọng mà lòng đau thắt lại. Trong nỗi nhớ nhung, người đọc nhận ra một tâm trạng đau đớn. Nàng tự hứa với lòng: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Đó chính là tấm lòng chung thủy, sắt son của nàng Kiểu.
Trích đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những bài thơ tả cảnh ngụ tình gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc trong Truyện Kiều. Ngòi bút của ông đi sâu vào từng cung bậc cảm xúc của Kiều, khiến người đọc thực sự xúc động và xót xa cho tình cảnh và số phận của nàng. Bức tranh về tâm trạng và số phận éo le của cô gái họ Vương vì thế mà mãi mãi nằm trong lòng người đọc.
3. Phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích 10 Câu đầu hay nhất – Bài văn mẫu số 2:
Trích đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là bức tranh mang cảm xúc chạm đến lòng người của Nguyễn Du. Sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nàng Kiều một cách chân thực và sâu sắc nhất.
Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả là hoang vắng, mênh mông và bao la. Ngồi trên lầu cao, nhìn về phía trước là núi non, nhìn lên trên là vầng trăng, xung quanh là bãi cát trải dài bất tận, tất cả dường như càng khắc sâu thêm nỗi cô đơn lẻ loi của nàng Kiều:
“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”
Chúng ta có thể tưởng tượng ra một không gian rộng lớn trải dài trước mắt Kiều. Không gian đó khiến Kiều càng thêm tiếc nuối và đau đớn:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”
Một chữ bẽ bàng mà thể hiện sâu sắc nỗi tủi hổ và tâm trạng xót xa của Kiều lúc bấy giờ: vừa chán nản, buồn cho số phận, vừa hổ thẹn, ngượng ngùng trước cảnh vật xung quanh. Cảnh vật xung quanh dường như cũng đồng cảm cho số phận của nàng.
Nỗi nhớ người yêu, nỗi nhớ cha mẹ được Nguyễn Du miêu tả rất cảm động trong những câu độc thoại nội tâm của nàng Kiều. Trước tiên là nỗi nhớ người yêu:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.”
Kiều cảm thấy nuối tiếc, xót xa cho mối tình đầu ngây thơ của mình, trước hoàn cảnh éo le của mình, hơn ai hết, nàng hiểu rằng mình sẽ không bao giờ có thể gột rửa được tấm lòng thủy chung, kiên định của mình với chàng Kim. Và quả thực, hình ảnh chàng Kim sẽ không bao giờ phai mờ trong tâm trí Kiều trong suốt những năm tháng lưu lạc.
Nguyễn Du đã rất thành công trong việc lột tả những băn khoăn, xót xa, trăn trở của Kiều khi nghĩ về cha mẹ, về mối tình với chàng Kim, nghĩ về bổn phận của mình khi còn là một đứa con. Trong hoàn cảnh của Kiều, những suy nghĩ, tình cảm đó càng chứng tỏ Kiều là một người rất hiếu thảo, dù trong hoàn cảnh vô cùng éo le nhưng vẫn luôn hi sinh cho gia đình.