Địa bạ là số sách hành chính dùng để ghi chép về ruộng đất thời nhà Nguyễn. Vậy địa bạ được hiểu như thế nào? Nội dung sổ địa bạ và điểm đặc biệt của sổ địa bạ như thế nào? Mời các bạn tham khảo bài viết dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Địa bạ là gì?
Có thể hiểu địa bạ là một cuốn sổ hành chính ghi chép về các mục tiêu liên quan đến ruộng đất. Địa được hiểu là đất, và bạ ám chỉ sổ sách, do đó, địa bạ có thể được coi là một phiên bản địa bộ hoặc điền bộ. Địa bạ là dùng để ghi lại và xác nhận các loại hình sở hữu ruộng đất thuộc về cộng đồng làng xã. Quy định lập địa bạ đã được thực hiện từ thời Lý đến thời Nguyễn thông qua việc đo đạc ruộng đất và ghi chép. Một địa bạ sẽ được sao chép thành ba bản: bản giữ ở triều đình Huế, bản giữ ở tỉnh và bản giữ ở xã. Ở đó, diện tích của các loại ruộng đất được ghi chép, và từng thửa đất được liệt kê với diện tích, ranh giới địa lý và tên chủ sở hữu. Và địa bạ cũng ghi lại quy trình xác nhận do các cấp chính quyền thực hiện. Ở thời kỳ Pháp thuộc, địa bạ đã được biểu diễn dưới dạng bản đồ có độ chính xác và khoa học hơn. Có thể nói địa bạ đóng vai trò quan trọng trong việc xác định quyền sở hữu và quyền sử dụng ruộng đất của cộng đồng làng xã, cá nhân, và các tập thể liên quan như họ hàng và phe giáp, cung cấp cơ sở pháp lý để quản lý và điều chỉnh việc sở hữu và sử dụng ruộng đất trong xã hội.
2. Giới thiệu về địa bạ thời triều Nguyễn:
Địa bạ là cuốn sổ ghi chép tổng hợp thông tin về diện tích đất đai ở mỗi xã, thôn, phường, sở, trại, ấp, động, giáp, và áng. Trong địa bạ bao gồm các thông tin về diện tích các loại ruộng như ruộng vụ hè, vụ thu, thực canh, hoang phế, đền chùa, đất ao vườn, bãi tha ma, đường sá, và khe ngòi. Nhiều địa phương thực hiện việc kê khai thông tin này và lập thành các sổ, sau đó nộp cho phía nhà nước. Ở triều Nguyễn (1802-1945), địa bạ trở thành một khối tài liệu có giá trị và chiếm số lượng lớn nhất trong tất cả các tài liệu Hán- Nôm được lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia. Tổng cộng có 17.058 đơn vị và 293.639 tờ, khối tài liệu này được coi là bộ sưu tập tài liệu gốc lớn và đầy đủ nhất về địa bạ cổ của Việt Nam. Ngay sau khi thống nhất lãnh thổ, Vua Gia Long đã lần đầu tiên trong lịch sử phong kiến Việt Nam lập sổ thống kê ruộng đất trên toàn quốc.
Nhiều tài liệu địa bạ đã chứng minh giá trị quan trọng của nó trong việc nghiên cứu lịch sử. Điều này rõ ràng được thể hiện trong các bộ chính sử của triều đại Nguyễn như Đại Nam Thực Lục, Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, … đã sử dụng nhiều thông tin từ tài liệu địa bạ. Cho đến ngày nay, tài liệu địa bạ được sử dụng như tư liệu trong các nghiên cứu khoa học, luận văn tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân, với những công trình như “Hệ Thống Tư Liệu Địa Bạ Việt Nam” do Giáo sư Phan Huy Lê chủ biên, đã được xuất bản từ năm 1995, bao gồm 3 tập là Địa bạ Hà Đông, Địa bạ Thái Bình và Địa bạ cổ Hà Nội, tất cả đều khai thác từ tài liệu địa bạ gốc được lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia. Các công trình khác như “Nghiên cứu Địa bạ triều Nguyễn – Bình Định” của Nguyễn Đình Đầu và “Chính sách quân điền năm 1839 ở Bình Định qua tư liệu Địa bạ” của Tiến sĩ Phan Phương Thảo cũng đã khai thác từ nguồn tài liệu rất bổ ích này. Những thông tin trong tài liệu địa bạ thường được sử dụng để xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, quy hoạch và đề án phù hợp và khả thi. Nhiều nhà quản lý sử dụng thông tin từ địa bạ để thống kê tình hình đất đai, mở rộng sản xuất nông nghiệp, quản lý sử dụng ruộng đất, quyền sở hữu ruộng đất giữa các tầng lớp xã hội và các dòng họ, cũng như thu thu. Địa bạ là một cuốn sổ ghi chép tổng hợp thông tin về diện tích đất đai ở từng xã, thôn, phường, sở, trại, ấp, động, giáp, và áng. Nó bao gồm các thông tin về diện tích ruộng vụ hè, vụ thu, thực canh, hoang phế, đền chùa, đất ao vườn, bãi tha ma, đường sá, và khe ngòi. Các địa phương thực hiện việc kê khai thông tin này và lập thành sổ, sau đó nộp cho nhà nước.
Nhiều thông tin trong tài liệu địa bạ thường xuyên được khai thác và sử dụng để phục vụ cho việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, để có kế hoạch hoặc đề án quy hoạch phù hợp và khả thi, các nhà quản lý không thể không khai thác các thông tin có trong tài liệu địa bạ như: Số liệu thống kê về tình hình đất đai, tình hình khai hoang mở rộng sản xuất nông nghiệp, chế độ sử dụng ruộng đất, chế độ sở hữu ruộng đất giữa các giai tầng xã hội và các dòng họ, chế độ trưng thu thuế khoá ruộng đất,… từ những giá trị trên giúp các nhà quản lý khai thác và sử dụng những thông tin quá khứ để có những quyết định hợp lý. Qua thống kê của Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, hiện nay tần số khai thác sử dụng tài liệu địa bạ ngày càng nhiều, ngoài đối tượng khai thác tài liệu địa bạ là các nhà nghiên cứu, các nhà sử học, sinh viên khoa Lịch sử và khoa Văn học ngành Hán – Nôm, thì một số đối tượng khác cũng rất quan tâm đến tài liệu địa bạ. Đó là một số cá nhân muốn tìm hiểu các thông tin về đất đai và dòng họ phản ánh trong khối tài liệu này. Do vậy, tài liệu địa bạ đã đáp ứng được nhu cầu chính đáng của nhân dân.
3. Điểm đặc biệt của địa bạ:
Địa bạ là một loại sổ ghi chép được sử dụng để thống kê thông tin về ruộng đất của các làng, xã. Thông tin này dựa trên quá trình đo đạc và xác nhận của chính quyền. Mục đích chính của việc lập Địa bạ là quản lý ruộng đất, thu thuế và xác định ranh giới giữa các đơn vị hành chính, nhằm tránh tranh chấp về vấn đề ruộng đất. Dưới triều Nguyễn, khi Vua Gia Long lên ngôi vào năm 1805, việc lập Địa bạ đã được bắt đầu từ các tỉnh Nghệ An, Thanh Hoá và các trấn ở Bắc thành. Vào năm thứ 9 của triều đại Gia Long (1810), việc lập Địa bạ đã được mở rộng từ Quảng Bình trở xuống miền Nam. Vua Gia Long đã đặt quy định rằng mỗi Địa bạ sẽ được tạo thành 3 bản gồm bản giáp, ất và bính. Sau khi hoàn thành, các bản này sẽ được gửi lên Bộ Hộ để đóng dấu. Bản giáp được lưu trữ tại Bộ Hộ, bản ất lưu trữ tại thành trấn và bản bính được cấp cho các xã để sử dụng làm bằng chứng. Việc lập Địa bạ được tiến hành theo một hệ thống và mẫu thống nhất trên toàn quốc. Mỗi Địa bạ đại diện cho một đơn vị hành chính độc lập, thường là xã, nhưng cũng có thể là thôn, giáp, phường hoặc trại.
Thời điểm trước đây, sưu tập Địa bạ này đã được bảo quản tại Tàng thư lâu Huế, nhưng hiện nay nó được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I. Đây là các bản chính, chủ yếu là bản Giáp, tức là bản được lưu trữ tại triều đình và do Bộ Hộ quản lý. Toàn bộ sưu tập này gồm Địa bạ của triều Nguyễn, với niên đại lập từ năm thứ 4 của triều đại Gia Long (1805) đến năm 20 của triều đại Bảo Đại (1945). Bộ sưu tập này bao gồm Địa bạ của 31 tỉnh dưới triều Nguyễn, bao gồm Cao Bằng, Lạng Sơn, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Kinh Bắc, Quảng Yên, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây, Hà Nội, Hải Dương, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Bình Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, An Giang, Vĩnh Long và Hà Tiên.