Cuộc đời Thúy Kiều đã phải trải qua 15 năm cuộc đời lưu lạc, trải qua muôn vàn cay đắng của cuộc đời, đoạn trích Nỗi thương mình đã thể hiện tâm trạng đau khổ của Thúy Kiều trong lầu xanh
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Nỗi thương mình:
Mở bài: giới thiệu tác giả tác phẩm
Thân bài:
Hiện trường tòa nhà xanh trụy lạc và phóng túng:
– “Bướm lả ong lơi” gợi một viễn cảnh hết sức thô tục, ví kỹ nữ như bông hoa đẹp, kĩ nữ như ong bướm lả lơi, ghé hoa này, rờ hoa kia, rất hỗn tạp, ngông cuồng.
– Mùi rượu nồng nặc quyện với mùi son phấn thô tục với cuộc “cuộc say đầy tháng”, với thú vui “trận cười suốt đêm” của những nam nữ ăn chơi ngày đêm, ồn ào, náo nhiệt và trác táng.
– Hình ảnh nam nữ cười đùa, tựa vào nhau, đầu kề đầu, má chạm nhau như lá với gió, cành với chim.
– Khắc họa hình ảnh khách làng chơi với những truyền thuyết, huyền thoại, những nhân vật như Tống Ngọc, Tư Mã Tương Như.
Nỗi đau và tâm trạng của Thúy Kiều:
– “Nửa đêm thức giấc/ Giật mình thấy thương mình”: Ý thức được thân phận bọt bèo của mình, giật mình, bàng hoàng nhìn lại xác chết mà xót xa cho mình.
– “Khi sao phong gấm rủ là” là lời nhắc nhở về cuộc sống êm đềm với rèm che ngày xưa. Còn Kiều giờ đây buộc phải đối diện với cuộc đời đầy rèm che, nhưng đắm chìm trong những ngày nửa sắc nửa hương.
– Kiều thấy mình đáp lại hai chữ “tung hoa giữa đường” như đóa hoa mẫu đơn thanh cao, thuần khiết nhưng cuối cùng lại bị chà đạp không thương tiếc, chỉ còn lại một vẻ tàn phai, hoen ố.
– Hàng ngày phải đi ra ngoài Bắc Nam, ngắm nghía, bình phẩm, “hít thở” và ôm ấp đàn ông như tình nhân, với những cử chỉ tán tỉnh, tình tứ, dễ dãi.
– Lời than thở chua xót “Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”, là ý thức về thân phận thấp hèn, mục nát của mình.
=> Cuộc đời tủi nhục, tủi nhục, đau đớn tột cùng về cả thể xác và tinh thần của Kiều.
Vẻ đẹp tâm hồn Thúy Kiều:
Nhưng dù cuộc đời có chà đạp, vùi dập liễu yếu đào tơ thì Kiều vẫn mạnh mẽ kiên cường, giữ vững phẩm chất cao quý, trong sáng. Dù ở những chốn lầu xanh, những cuộc “mây mưa của Tần” ở đâu, nàng cũng chẳng màng đến những thú vui tầm thường, phù phiếm đó.
– “Cảnh buồn người có vui đâu bao giờ?”, diễn tả đúng hoàn cảnh đau khổ, buồn tủi của Thúy Kiều.
– “Đòi phen nét vẽ câu thơ/Cung cầm trong nguyệt nét cờ dưới hoa” tả cảnh trêu ngươi của Thúy Kiều, nàng là người thông minh sắc sảo, có gì không hiểu , nhưng nhìn cảnh tượng trước mắt, nhìn số phận của chính mình, những thứ cô yêu thích trước đây cũng trở nên tẻ nhạt, nhàm chán.
-“Ai tri âm đó mặn mà với ai” nỗi trăn trở về một người có lẽ thiếu hiểu biết, thương hại và khao khát thoát khỏi chốn mờ ám. Điều đó càng làm cho Kiều hụt hẫng và buồn bã đến cùng cực.
Kết bài: đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật
2. Những bài phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong Nỗi thương mình hay nhất:
2.1. Bài mẫu 1 – Bài phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong Nỗi thương mình hay nhất:
Nét độc đáo của đoạn trích này là tác giả viết về hoàn cảnh và tâm trạng của Thúy Kiều khi phải làm gái điếm để tiếp khách làng chơi. Nguyễn Du phải đối diện với thực tế phũ phàng rằng xã hội tàn ác đã đồn thổi đẩy nhân vật mà ông nâng niu, yêu mến vào chốn bình yên. Làm sao để vẫn phản ánh đúng sự thật mà không hạ thấp nhân vật vẫn thể hiện sự đồng cảm và bộc lộ nỗi đau, tình cảm của nhân vật. Nguyễn Du đã phát huy được thế mạnh của lối viết ước lệ và nghệ thuật dùng từ vừa phù hợp vừa chính xác để giải quyết tình thế khó xử này. Nguyễn Du đã miêu tả sinh động một bức tranh tiêu biểu về cuộc sống chốn lầu xanh một cách tượng trưng:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.
Những ẩn dụ như con bướm, con ong, chiếc lá gió, cành chim, hình ảnh cười say suốt đêm và cả những điển tích văn học về Tống Ngọc, Trường Khanh, hai vị khách giàu có nổi tiếng đã được khắc ghi thảm họa cuộc sống thác loạn, nhơ nhớp và thân phận nhục nhã của gái điếm chốn lầu xanh. Giữa không khí ồn ào, tấp nập, nhàn nhã, rụt rè, nổi bật lên hình ảnh một Kiều cô đơn, buồn bã trong buổi sớm tối.
Các hình thức đối xứng trong câu như bướm/ong, lá gió/chim cành được Nguyễn Du khai thác triệt để nhằm làm nổi bật nỗi sầu của Thúy Kiều.
Bốn câu thơ đầu vừa là bức tranh về cuộc sống nhơ nhớp trong nhà kho, vừa là tiếng thở dài ẩn ý của người con gái tài sắc vẹn toàn bị ép làm kĩ nữ. Tác giả xót xa cho Thúy Kiều đã rơi vào chốn nhơ nhớp, nơi nhân phẩm bị hủy hoại nhưng cũng chính trong hoàn cảnh đó Thúy Kiều đã ý thức rất rõ về phẩm giá cao quý của mình.
Thúy Kiều là cô gái được Nguyễn Du xây dựng trở thành hình mẫu lí tưởng về cái đẹp và cái thiện. Khi cô ấy ở trong một tình huống nhục nhã mà cô ấy không bao giờ nghĩ là có thể xảy ra. Thúy Kiều đã cố vùng vẫy để được giải thoát nhưng càng vùng vẫy nàng càng bị bế tắc. Nỗi đau “trần thế” đối với Thúy Kiều dường như nhân lên gấp bội, bởi hơn ai hết, nàng không bao giờ chấp nhận cuộc đời sớm tối chồn vùi tuổi xuân . Vì vậy, khi thể hiện tâm trạng của Thúy Kiều ở lầu xanh, Nguyễn Du đã dồn hết những cảm xúc trầm ngâm vào ngòi bút của mình.
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Sống trong cảnh say cả tháng trời, tiếng cười suốt đêm, chỉ khi tỉnh rượu, cuối mùa, Kiều mới có những giây phút hiếm hoi được sống thật với chính mình. Đến khi khách làng chơi ra về thì đã rất khuya, chỉ còn mình Kiều đứng trước đèn lồng.
Câu thơ 3/3 như gợi lên từng bước chậm của thời gian. Thời gian và không gian tĩnh lặng, hiu quạnh gợi lên nỗi chua xót, xót xa trong lòng người con gái lênh đênh, lưu lạc nơi xứ người.
Ở câu thơ thứ hai, nhịp điệu chuyển sang 2/2/2/2: giật mình/ mình lại/ thương mình/xót xa phù hợp với việc ngắt nhịp đột ngột để diễn tả tâm trạng bấn loạn của Thúy Kiều. Chữ mình có thanh điệu bằng phẳng nhưng không gợi sự nhẹ nhõm mà có cảm giác nặng trĩu bởi nó được lặp lại ba lần trong câu thơ với nhịp điệu thổn thức, như tiếng nấc nghẹn ngào khi cố kìm lại tiếng khóc.
Thúy Kiều giật mình trước sự thay đổi khủng khiếp của số phận và cảm giác thảm hại của mình lúc này. Hai bài thơ tâm lý trên có thể coi là xuất sắc. Nhịp điệu, âm hưởng, điệp ngữ hài hòa, tự nhiên diễn tả chính xác tâm trạng buồn của Thúy Kiều. Trong đêm thanh tĩnh, nỗi buồn ấy như hiện rõ, tạo thành một thân xác Thúy Kiều bằng xương bằng thịt. Đọc hai câu thơ trên chắc hẳn ai cũng phải khóc một cách chua xót.
Nỗi tủi thân là cảm xúc bao trùm trong đoạn trích. Thúy Kiều buộc phải rời xa cha mẹ, quê hương để bước vào cuộc hành trình định mệnh. Thôi thì đành nhắm mắt đưa chân, xem nó xoay chuyển thế nào, không ngờ mình lại rơi vào hang hùm đầy bọn đồ tể đê tiện vô liêm sỉ. Nàng đang sống bơ vơ một góc trời, không có ai nương tựa, không có ai an ủi, vỗ về, sẻ chia để xoa dịu nỗi đau cô đơn nên Kiều cảm thấy thương cho chính mình.
Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở việc “đọc” tâm trạng Thúy Kiều mà sâu xa hơn thế, nhà thơ đã thực sự xúc động trước nỗi khổ của nàng, đồng thời truyền sự rung động mãnh liệt ấy vào trái tim, khối óc tất cả mọi người.
Thúy Kiều cay đắng nghĩ đến sự tương phản khủng khiếp giữa quá khứ tươi đẹp hạnh phúc với hiện thực tàn khốc đen tối:
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Nàng nhớ lại cuộc sống quyền quý và sang trọng ở nhà với cha mẹ trước khi thảm họa xảy ra và thương tiếc cho thân thể của mình bị rải như hoa giữa đường. Những hình ảnh, từ ngữ đối lập diễn tả nỗi đau đớn, tủi hổ của Kiều. Quá khứ tương phản rõ rệt với hiện tại. Quá khứ tươi đẹp chỉ được gợi lên qua một câu: Khi xưa được nâng niu thì hiện tại tăm tối được nhắc đến liên tục trong nhiều câu thơ. Sao là từ nghi vấn nhưng có tính chất cảm thán, được dùng cả ở dạng khởi ngữ và ở dạng điệp ngữ. Đằng sau những ngôn từ, hình ảnh đẹp đẽ ấy là những nỗi niềm day dứt không nguôi, những câu hỏi vương vấn muốn vang tận trời. Ông trời thật bất công, thật trớ trêu! Thực ra, Tạo hóa không nỡ lòng nào ngược đãi Thúy Kiều – một cô gái tài sắc vẹn toàn, mà chính những thế lực tàn ác trong xã hội đã dìm nàng xuống vũng bùn đen. Tuy nhiên, thái độ lúc này của Kiều không phải là bỏ cuộc, bởi nàng cảm nhận sâu sắc về phẩm giá của mình và nỗi tủi nhục của một người lương thiện bị đánh đập, hành hạ.
Tác giả miêu tả tâm trạng của Kiều ở lầu xanh:
Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp của bốn mùa như mùa xuân có hoa; mùa hè lộng gió; Ánh trăng thu; mùa đông tuyết rơi. Nhưng trước những cảnh đẹp ấy, Kiều lại dửng dưng, dửng dưng vì trái tim đã bị đóng băng bởi những đau khổ quá mức.
Trong lầu xanh cũng có đủ thứ thú vui như cầm, thi, thi, họa nhưng đối với Kiều, cảnh vật, con người và những thú vui ấy giờ đây đối với nàng đều vô nghĩa.
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du, không chỉ quá khứ đối lập với hiện tại mà bản thân cuộc sống hiện tại cũng chứa đựng sự đối lập đó. Đời kỹ nữ nhìn bề ngoài có vẻ xa hoa, quý phái. Đòi phen nét vẽ câu thơ thơ, cúi nhìn trăng, cắm hoa; Gió như hoa lá, tuyết khép nửa màn, trăng tròn bốn bề, nhưng trớ trêu thay khi bụi đất lại che đi một vẻ thơ mộng, hào nhoáng.
Sự tương phản đó Kiều nhận ra bằng trái tim nhạy cảm của mình. Những từ ngữ lúng túng, dửng dưng, bàng hoàng diễn tả tâm trạng bất bình, thậm chí tủi nhục của Kiều trước thực tại. Người chân chất như Kiều mà phải vui vẻ tiếp đãi khách thì nỗi buồn càng sâu, càng sâu. Dường như nỗi buồn từ trong lòng lan tỏa ra cả cảnh vật:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Với sự đồng cảm thực sự và tài năng tuyệt vời. Nguyễn Du đã viết hai trong số những bài thơ hay nhất về mối quan hệ tương đồng giữa môi trường và tâm trạng, giữa cảnh và tình trong văn học Việt Nam.
Đoạn văn Nỗi thương mình hàm chứa ý nghĩa sầu muộn về quá trình tự ý thức của cá nhân trong văn học trung đại. Phụ nữ ngày xưa thường được giáo dục tinh thần dũng cảm, bao dung, nhẫn nhịn. Khi nhân vật giật mình và cảm thấy thương hại cho chính mình, điều này bao hàm ý nghĩa của “cách mạng”. Con người không chỉ biết hi sinh, chịu đựng, chịu đựng mà bước đầu đã có ý thức về phẩm giá, nhân cách, tức là quyền sống của mình.
Đau lòng là một hiện tượng khá phổ biến trong thơ ca thế kỷ 18, nhưng Nguyễn Du viết về đề tài này sâu sắc hơn các tác giả khác. Tự trắc ẩn là nền tảng của lòng trắc ẩn đối với người khác. Dân gian có câu: Thương người như thể thương thân là vì thế. Không thể có tình yêu sâu sắc, chân chính dành cho người khác nếu không có ý thức về bản thân, nếu không biết cách yêu chính mình.
Đoạn trích Nỗi buồn của Kiều thể hiện phẩm giá cao quý, trong sáng của Thúy Kiều. Nguyễn Du không trốn tránh hiện thực phũ phàng, đã nâng cao nhân cách, phẩm giá của Kiều qua việc thể hiện thành công nỗi buồn, sự day dứt, chán chường của nàng giữa chốn bùn nhơ.
2.2. Bài mẫu 2 – Bài phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong Nỗi thương mình hay nhất:
Chủ nhân Mộng Liên Đường đã giới thiệu khái quát về xuất thân của Thúy Kiều: “Khi lai láng tình thơ, người tựa án khen tài châu ngọc; Khi duyên ưa kim cải non biển thề bồi; Khi đất nổi ba đào cửa nhà tan tác; Khi lầu xanh, khi rừng tía, cõi đi về nghĩ cũng chồn chân; Khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải nghĩ cùng tê lưỡi”. Thúy Kiều đã trải qua hầu hết những đau khổ đau đớn nhất của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, đau khổ nhưng luôn ý thức mình “cuối đời”, rơi vào lầu xanh, Kiều cảm thương cho số phận nhưng cũng luôn ý thức về phẩm giá ấy, góp phần tạo nên giá trị nhân đạo to lớn và sâu sắc của tác phẩm.
Số phận và tính cách bi thảm của người Việt kiều chi phối toàn bộ nội dung tác phẩm. Nhan sắc “nghiêng nước, nghiêng thành”, tài hoa tuyệt sắc, tài thơ văn tài tình của nàng không cưỡng lại được hoàn cảnh. Nàng rơi vào bẫy của Tú Bà và buộc phải tiếp khách làng chơi:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười thâu đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh
Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ kết hợp với bút pháp đối xứng, gạch chéo để vừa thể hiện một hiện thực đáng buồn, thân phận tủi nhục của người kĩ nữ, vừa lưu giữ được chân dung đẹp đẽ của nhân vật Thúy Kiều, qua đó thể hiện sự đồng cảm trân trọng đối với nhân vật của mình.
Thân phận của Kiều bị dòng đời cuốn trôi, tưởng chừng như chìm trong bùn nhơ, không ngóc đầu lên được. Nhưng nỗi đau, sự tủi thân, tự ti của cô khiến chúng tôi chỉ biết yêu thương, trân trọng cô hơn. Hãy cùng nghe cô nàng tâm sự sau những “cuộc vui”, những “tiếng cười sảng khoái”:
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Vẫn ở trong lầu xanh của Tú Bà nhưng thời gian đã “hết canh” – đêm khuya, khoảng thời gian hiếm hoi để nàng đối diện với lòng mình, trở về với con người thật của mình. “Giật mình” như một sự bàng hoàng, một cảm thán đau đớn. “Giật mình” vì chán ghét cuộc sống trụy lạc trong tòa nhà xanh. “Giật mình” cho chính mình, một cô gái thuở nhỏ sống trong cảnh “gấm dệt gấm” nay lại rơi vào cảnh “ong bướm chán chường”. “giật” hay “rùng mình”, bởi tấm thân “gìn vàng ngọc” cho Kim Trọng giờ phải để mặc cho dân làng chơi hành hạ. Chính vì thế mà bốn chữ “mình lại thương mình” chìm xuống, giọng thơ đầy cô đơn, sầu não.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Trong bốn câu đầu, chỉ có câu đầu nói về quá khứ êm đềm, ba câu tiếp theo nói về hiện thực phũ phàng. Điều đó tạo ra cảm giác rằng hiện tại đang đè nặng lên, chôn vùi quá khứ. Bốn từ “sao” được lặp lại: “khi sao, thân giờ sao”, “mặt sao là một câu hỏi có giọng điệu cảm thán mạnh thể hiện nỗi đau tột cùng trong cảnh đày ải. Lời thơ vừa phẫn uất, vừa phẫn uất, vừa xót xa, nghẹn ngào.
Nỗi tủi thân của Thúy Kiều mang ý nghĩa sâu sắc về mặt ý thức tự giác của một cá nhân trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam. Phụ nữ thời cổ đại được dạy tinh thần cam chịu, nhẫn nhịn và buông xuôi. Con người khi biết mình “giật mình xót xa” thì không còn nhẫn nhịn, cam chịu nữa mà có ý thức rất cao về phẩm giá, cá nhân, ý thức về quyền sống của mình.
Lòng thương xót là một chủ đề phổ biến trong văn học Việt Nam cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 (Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm, thơ Hồ Xuân Hương,…). Nguyễn Du là người viết về cảm hứng này đậm đà và sâu sắc hơn cả. Yêu bản thân là một cách phản ứng với thực tế về danh tính của bạn. Nó cho thấy con người không bị cuốn trôi, không bị tiêu diệt. Giữa chốn lầu xanh nhơ nhớp, Kiều tách ra như một điểm so sánh của tâm hồn. Chính vì thế mà Từ Hải, Kim Trọng và nhiều thế hệ độc giả trân trọng nàng.
Đoạn thơ vừa thể hiện giá trị hiện thực vừa thể hiện chiều sâu của tư tưởng nhân đạo, một chiều sâu có xu hướng vượt thời đại. Đoạn thơ giúp ta hiểu thêm vì sao Truyện Kiều luôn đồng hành cùng bao niềm vui nỗi buồn của con người Việt Nam qua mưa nắng.
3. Bài phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong Nỗi thương mình ấn tượng nhất:
Trong dòng chảy của văn học trung đại, mỗi nhà văn, nhà thơ đã góp phần làm nên diện mạo văn học Việt Nam qua nhiều tác phẩm đặc sắc thuộc nhiều thể loại khác nhau. Và khi nhắc đến Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, bao thế hệ độc giả không thể không nhắc đến tác phẩm “Truyện Kiều”. Đọc những trang Kiều, người đọc dường như hiểu được nỗi đau mà Kiều phải chịu đựng, nhưng ẩn sau đó là vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của nàng. Có thể nói, đoạn văn “Nỗi thương mình” từ câu 1229 đến câu 1248 là một điển hình cho điều đó.
Bốn câu thơ mở đầu của đoạn trích “Nỗi sầu của em” vẽ ra trước mắt người đọc hoàn cảnh éo le, đáng thương của Thúy Kiều.
Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.
Bằng những hình ảnh mang đậm tính ước lệ, tượng trưng “bướm bay dập dờn”, “vui vẻ”, “tiếng cười” gợi lên cảnh ngày đêm nhộn nhịp, tấp nập nơi chốn lầu xanh. Ở nơi ấy luôn tràn ngập tiếng cười với những cuộc vui, những bữa tiệc say. Ngoài ra, tác giả còn khéo léo sử dụng điển tích, truyền thuyết “Tống Ngọc”, “Trường Khánh” để chỉ những người giàu có, ăn chơi chốn lầu xanh. Những hình ảnh này đã nói lên cuộc sống tủi nhục, đau khổ của Thúy Kiều nơi lầu xanh, phải tiếp khách suốt ngày đêm, trở thành trò tiêu khiển cho những khách giàu có, đa tình khi lui tới đây.
Trước hoàn cảnh trớ trêu nơi lầu xanh, Thúy Kiều luôn chất chứa nỗi xót xa, ngậm ngùi cho thân phận và cuộc đời.
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Đoạn thơ “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh” mở ra khoảng thời gian đêm khuya, khi cuộc vui đã tàn, khoảng thời gian hiếm hoi Kiều được sống là chính mình, đối diện với chính mình với bao nỗi niềm, trăn trở. Chỉ trong giây phút ngắn ngủi ấy, Kiều đã “giật mình” sửng sốt trước hiện thực cuộc đời mình. Để rồi, sau cái giật mình ấy là nỗi xót xa cho mình, cho bản thân mình, nỗi xót xa ấy của Kiều suy cho cùng chính là sự tự ý thức trong nhân cách Thúy Kiều. Trong nỗi đau buồn và cô đơn, Thúy Kiều tìm mọi lý do để giải thích.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.
Nghệ thuật tương phản đã được tác giả sử dụng thành công qua việc sử dụng hàng loạt hình ảnh tương phản, giữa một bên là “phong gấm rủ là” gợi nhớ về những ngày êm đềm, hạnh phúc đã qua, một bên là những hình ảnh “tan tác”, “hoa như đường”. Thể hiện sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, tác giả Nguyễn Du đã làm nổi bật cuộc đời tủi nhục, buồn tẻ của Thúy Kiều trong một tình huống trớ trêu. Ngoài ra, với việc sử dụng một loạt từ để hỏi “bao giờ”, “bây giờ thế nào”, đã tạo nên giọng điệu nghi vấn, dường như Thúy Kiều đang băn khoăn, dằn vặt chính mình. Trong nỗi cay đắng, đầy day dứt ấy, Thúy Kiều đã nhận thức rõ sự đối lập gay gắt giữa ta và người.
Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì.
Không chỉ là sự đối lập giữa cuộc sống quá khứ và hiện tại mà ở Thúy Kiều hôm nay còn có sự đối lập rõ nét giữa khung cảnh bên ngoài và tâm trạng của chính mình. Bi kịch đó của Thúy Kiều được thể hiện rõ nét ở 8 câu thơ cuối đoạn văn.
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Đặc biệt, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả Nguyễn Du đã cho thấy tâm trạng của Thúy Kiều khi sống ở đây là sự tủi hổ cho số phận của chính mình. Đặc biệt, nỗi đau xé lòng của Kiều được thể hiện qua việc sử dụng hàng loạt câu hỏi tu từ.
Tóm lại, đoạn trích “Nỗi thương mình” với việc sử dụng thành công nghệ thuật gợi hình và giàu sức gợi đã thể hiện rõ nét và sâu sắc tâm trạng xót xa cho số phận của Thúy Kiều. Đồng thời, ẩn sau đó người đọc cũng cảm nhận được vẻ đẹp nhân cách của nàng.