Cùng viết về Đất Nước, song ở bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm lại thể hiện tình yêu đất nước qua những nét mới lạ, những quan điểm khác với thời trước. Bài viết dưới đây, hãy cùng chúng tôi phân tích những nét mới trong cảm nhận về Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý nét mới trong cảm nhận về Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm :
Mở bài:
Giới thiệu tác giả
Thân bài:
a. Cội Nguồn Đất Nước
Đất nước bắt nguồn từ những diều bình dị, gần gũi trong đời sống của người dân Việt Nam từ xa xưa: truyện cổ tích “ngày xửa ngày xưa”, tục ăn trầu của người Việt và truyện cổ tích sự tích trầu cau, sự tích tích lũy thói quen, mái tóc người phụ nữ Việt Nam, tâm lý, thói quen và truyền thống của dân tộc. → Văn học dân gian tiêu biểu của đất nước. Đất nước trưởng thành với quá trình sản xuất “kèo, cột thành tên”, “một nắng hai sương”, quá trình đấu tranh chống ngoại xâm.
→ Tác giả đã có cái nhìn mới về cội nguồn của đất nước, đất nước bắt nguồn từ chiều sâu văn hóa, văn học, lịch sử và truyền thống dân tộc.
b. định nghĩa về đất nước
“Anh đi học, em tắm, nơi hẹn hò”: Đất nước là không gian thân thiết của cuộc sống gắn liền với tình yêu, là nơi hò hẹn của những đôi trai gái.
“Nơi em đánh rơi khăn trong nỗi nhớ thầm”: từ ngữ tình cảm, lời thủ thỉ thân thương, không gian giàu cảm xúc gợi lên những vần thơ đằm thắm về nỗi nhớ.
→ Nét độc đáo của Đất nước: Hình thức điệp ngữ, diễn giải bằng hai yếu tố Đất và Nước, thể hiện cảm xúc về đất nước thống nhất về mặt địa lý – lịch sử.
c. Cách cảm nhận Đất nước
Thời gian vô tận, không gian bao la, Chim về, Rồng ở, Giỗ tổ. Đất nước là không gian sinh tồn của biết bao thế hệ, quá khứ của tổ tiên chúng ta, hiện tại của chúng ta và tương lai của con cháu chúng ta.
→ Đất nước được cảm nhận trên bề rộng không gian địa lý, bề dài lịch sử, bề dày truyền thống văn hóa, đất nước được cảm nhận trong sự thống nhất giữa cái thường nhật và cái vĩnh cửu trong đời sống cộng đồng, cái không thể tách rời giữa con người với cộng đồng.
d. Ý thức trách nhiệm với đất nước
Đất nước là máu thịt của mỗi con người, là sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân với cộng đồng dân tộc, giữa các thế hệ, là mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. → Mỗi chúng ta đều có trách nhiệm với đất nước.
“Cùng nhau làm nên”: truyền thống yêu thương, đoàn kết, tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam tạo nên sức mạnh vô địch.
→ Mỗi người không chỉ là tài sản của riêng mình mà còn là tài sản chung của đất nước. Vì mỗi người đều được thừa hưởng di sản văn hóa tinh thần của đất nước và lớn lên trong di sản đó. Vì vậy, mỗi người phải có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ và phát huy nền văn hóa đó.
đ. Tư tưởng nước là của dân
Núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái, Tổ Hùng Vương, Núi Bút, Non Nghiên, Thành Hạ Long, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm: Những địa danh cảm nhận qua số phận, cảnh ngộ của con người, hóa thân của vô danh như một phần máu thịt của nhân dân. Chính con người từ bao đời nay đã tạo dựng nên đất nước này và đã ghi dấu đời mình trên từng ngọn núi, dòng sông.
Bốn ngàn năm, người, lớp, gái, trai, không ai nhớ tên, giản dị và bình lặng. Những con người vô danh ấy đã gìn giữ và truyền lại những giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất (văn minh lúa nước đốt lửa quanh từng nhà, mang tiếng nói, mang tên làng, đắp đập bờ tre).
→ Đất nước là của nhân dân, những con người bình thường nhưng cần cù, chịu thương, chịu khó trong lao động nhưng kiên cường, bất khuất, dũng cảm trong chiến đấu.
Kết bài:
Tổng kết vấn đề: nét mới trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm và liên hệ thực tiễn.
2. Phân tích nét mới trong cảm nhận về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm:
Đất nước là nguồn cảm hứng vô tận của các thi nhân, văn nghệ sĩ. Từ xa xưa, chúng ta đã bắt gặp hình ảnh làng quê qua những đàn cò trắng bay lượn trên cánh đồng làng vào những buổi chiều quê yên ả. Để rồi ta bắt gặp một đất nước “lưng đeo gươm, tay mềm cầm bút hoa” trong thơ Chế Lan Viên, một đất nước “rũ bỏ bùn đứng sáng”, một đất nước xưa và nay trong mùa thu trong thơ Nguyễn Đình Thi. Và khi đọc Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp hình ảnh “Đất nước của những con người, đất nước của những câu ca dao thần thoại” trong toàn bộ chương Đất nước của sử thi này.
Hình ảnh “Đất nước của những con người, của những câu ca dao thần thoại” được tác giả thể hiện bằng giọng trữ tình chính luận. Tình cảm sâu lắng nhưng cũng giàu tính triết lý sâu sắc, mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về đất nước và giúp mỗi người thêm yêu, mến Tổ quốc hơn.
Theo Nguyễn Khoa Điềm, đất nước không của riêng ai mà là của toàn dân. Hàng triệu người đã đổ mồ hôi xương máu của biết bao thế hệ để bảo vệ và xây dựng đất nước.
Có biết bao người con gái, con trai,
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết.
Giản dị và bình tâm,
Không ai nhớ mặt đặt tên,
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Trong suốt bốn nghìn năm dựng nước, chúng ta đã chiến đấu và lao động, từng bước tạo nên diện mạo lãnh thổ, văn hóa dân tộc, các mối quan hệ gia đình, làng xóm, tổ tiên, mối quan hệ với tự nhiên và thiên nhiên.
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi,
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.
Đất nước không phải là cái gì xa xôi, trừu tượng mà cụ thể, gắn bó mật thiết với tình cảm và sinh hoạt hàng ngày của chúng ta:
Đất là nơi anh đến trường,
Nước là nơi em tắm,
Đất Nước là nơi ta hò hẹn,
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Và hiện hữu ngay trong bản thân mỗi người chúng ta:
Trong anh và em hôm nay.
Đều có một phần Đất Nước,
Khi hai đứa cầm tay,
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm.
Quan niệm về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm khác với quan niệm phong kiến xưa – đất nước là của vua.
Nam quốc Sơn hà nam đế cư.
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
(Lí Thường Kiệt)
Quan niệm của Nguyễn Khoa Điềm cũng khác quan niệm của những người yêu nước đầu thế kỉ XX – đất nước là của những anh hùng làm nên lịch sử:
Nợ thuở trước đánh Tàu mấy lớp,
Cõi trời Nam cơ nghiệp mở mang .
Sông Đằng lớp sóng Trần Vương,
Núi Lam rẽ khói mở đường nhà Lê.
Quang Trung để từ khi độc lập,
Khí anh hăng đầy lấp giang Sơn.
(Phan Bội Châu)
Về hình thức thể hiện tính dân tộc, thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng mới mẻ, sáng tạo. Thơ ca cổ điển thường dùng tiếng kêu để tượng trưng cho tình yêu đất nước:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
(Bà Huyện Thanh Quan)
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.
(Nguyễn Khuyến)
Chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây những năm 20 của thế kỷ này, Tản Đà đã dùng hình ảnh tấm bản đồ để biểu thị cho đất nước:
Nọ bức dư đồ thư đứng cui,
Sông sông, núi núi khéo bia cười
Riêng Nguyễn Khoa Điềm sử dụng những hình ảnh trong ca dao, truyền thuyết, tục ngữ với màu sắc đa dạng, trải dài theo không gian, xuyên thời gian, đọng lại trong tâm trí ta những liên tưởng thú vị để tượng trưng. cho đất nước. Trước hết, xứ sở này đã có từ lâu đời, qua truyền thuyết trầu cau và truyền thuyết Thánh Gióng.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn,
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Qua những mĩ tục thể hiện lối sông giàu tình nặng nghĩa:
Tóc mẹ thì bới sau đầu,
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.
Qua đời sống lao động thật vất vả để lo cái ở, để lo cái ăn:
Cái kèo, cái cột thành tên,
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay. giã, giần, sàng.
Đất nước được coi là phần hay nhất của sử thi. Nó tạo nên những cảm xúc sâu lắng, tha thiết và rung động trong lòng người đọc. Bài thơ cũng tạo nên một tượng đài Tổ quốc Việt Nam bằng thơ ca, tượng đài ấy trường tồn theo thời gian, năm tháng và trong lòng mỗi người Việt Nam yêu Tổ quốc.
3. Nét mới trong cảm nhận về Đất Nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng):
Thơ ca giai đoạn 1945 – 1975 có nhiều sáng tác đặc sắc về đề tài Đất nước, tiêu biểu: Nguyễn Đình Thi (Đất nước), Xuân Diệu (Mũi Cà Mau), Chế Lan Viên (Tổ quốc chưa bao giờ đẹp thế này).
Những sáng tác trên đã tồn tại qua nhiều thế hệ người yêu thơ bởi những đóng góp độc đáo của chúng. Đoạn trích Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm cũng có một đóng góp đặc sắc. Chính trong cái nhìn mới của tác giả về đất nước thông qua những nét đẹp được khám phá sâu sắc trên nhiều phương diện: lịch sử – địa lý – văn hóa.
Khác với nhiều tác giả trước đây và một số nhà văn cùng thế hệ thường tạo khoảng cách khi chiêm ngưỡng hình ảnh Tổ quốc, với một lòng kính trọng đặc biệt, họ thường sử dụng những hình ảnh hào hùng, đẹp đẽ. Để bày tỏ cảm xúc của mình về đất nước, đoạn mở đầu bài thơ được Nguyễn Khoa Điềm diễn đạt tự nhiên, giản dị:
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước ở trong cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Đất nước thực ra rất thân thuộc, gần gũi. Có thể cảm nhận về đất nước qua những điều rất bình dị: câu chuyện cổ tích mẹ kể, miếng trầu của bà, ngôi nhà ta ở, hạt cơm ta ăn…
Thơ tư tưởng thường tự hỏi và tự trả lời. Khổ thơ mở đầu cũng có thể coi là câu trả lời cho câu hỏi: Đất Nước có từ bao giờ? Và lịch sử lâu đời của nước ta được giải thích không phải bằng sự nối tiếp của các triều đại hay sự kiện lịch sử mà bằng những câu thơ gợi lại những truyền thuyết xa xưa: sự tích trầu cau, truyền thuyết Thánh Gióng, nền văn minh sông Hồng với những phong tục tập quán độc đáo đã tồn tại lâu đời, đó là một đất nước được cảm nhận trong chiều sâu của văn hóa và lịch sử.
Tiếp theo, ở dòng chính – thơ trữ tình, là câu trả lời cho câu hỏi: đất nước là gì? là nhận thức về đất nước trong sự thống nhất, hài hòa về địa lý, lịch sử, không gian và thời gian. Xuất thân từ thế hệ trí thức trẻ, tri thức văn hóa còn mới mẻ, tác giả chia khái niệm đất nước thành hai thành phần: đất và nước để cảm nhận và suy nghĩ sâu sắc hơn, chứ không dừng lại ở mức độ trung bình.
Trong mắt các bạn trẻ, đất nước này là vùng đất thơ mộng với bao kỷ niệm ngọt ngào của tình yêu. Đất nước, không gian tuyệt vời của tình yêu, không chỉ của thế hệ hiện tại mà còn của nhiều thế hệ đã qua hướng suy nghĩ của chúng ta về cội nguồn, về: Những người đã khuất. Những ai bây giờ. Yêu nhau và có con. Mang theo phần của người đi trước để lại. Không gian của tình yêu ấy, theo dòng suy nghĩ của tác giả, mở rộng ra các chiều, rồi hướng tới cái nhìn toàn vẹn, đa chiều về đất nước trong chiều dài truyện. Bề dày lịch sử và địa lý, bề dày văn hóa và phong tục. Từ đó, mạch thơ dẫn đến những suy ngẫm về trách nhiệm của thế hệ mình, một thế hệ tự ý thức được bổn phận của mình với đất nước:
Em ơi, Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…
Đây là những lời tình cảm hơn là kêu gọi, khuyên nhủ. Vì vậy, sức truyền cảm của ý thơ còn rất mạnh mẽ.
Ở phần sau của đoạn trích, tác giả nhấn mạnh quan niệm Đất nước của nhân dân. Thực ra, đây cũng là tư tưởng cốt lõi của cả đoạn trích, nhưng ở phần sau, nó được triển khai theo hai hướng, vừa đào sâu, vừa phát hiện nhiều ý nghĩa mới. Những phát hiện thú vị và độc đáo của tác giả về đất nước về địa lý, văn hóa, phong tục rất đa dạng, theo tác giả là kết tinh của nhiều nỗ lực và khát vọng niềm hy vọng của nhân dân, của những con người bình thường, vô danh. Bởi vậy, khi nói về bốn nghìn năm lịch sử của đất nước, nhà thơ không nhắc tên các triều đại, các anh hùng trong sử sách mà nhấn mạnh đến lớp người khuyết danh:
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước…
Tóm lại, bài thơ là một cảm nhận mới của tác giả về đất nước qua vẻ đẹp được đi sâu khai thác trên nhiều phương diện: lịch sử – địa lý – văn hóa…
Với cái nhìn trầm tư, tư tưởng quốc gia của dân, do dân làm nên được tô đậm làm cảm hứng chủ đạo. Tất cả thể hiện bằng một giọng trữ tình – chính luận sâu lắng, tha thiết. Nghệ thuật sử dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo các chất liệu văn hóa, văn học dân gian vào câu thơ hiện đại càng làm tăng sức hấp dẫn cho câu thơ.
THAM KHẢO THÊM: