Đến với bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, ta như đứng trước bao nét văn hóa, truyền thống và phong tục đẹp đẽ. Vẻ đẹp đó được thể hiện sâu sắc nhất qua khổ 4. Dưới đây là bài văn mẫu phân tích đoạn 4 bài thơ Đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích đoạn 4 bài thơ Đất nước:
Mở bài: giới thiệu về tác giả, tác phẩm
Thân bài:
Thiên nhiên địa lý của đất nước không chỉ là sản phẩm của tạo hóa mà được hình thành từ những phẩm chất và số phận của mỗi con người, một bộ phận tâm hồn bằng xương bằng thịt của con người:
– Nhờ tình yêu thủy chung mà có “hòn Vọng Phu”, “hòn Trống Mái”
– Nhờ có tinh thần bất khuất, anh dũng trong quá trình dựng nước và giữ nước nên có ao đầm, di tích lịch sử về quá trình dựng nước.
– Nhờ có truyền thống hiếu học mà có “Bút núi Nghiên”.
Con người làm nên 4000 năm lịch sử
– Họ là những người con, người con gái chất phác nhưng luôn yêu nước.
– Tác giả đề cao những con người vô danh làm nên lịch sử, khẳng định vai trò của mỗi cá nhân đối với lịch sử dân tộc.
Nhân dân sáng tạo và gìn giữ những giá trị vật chất, tinh thần cho đất nước: văn hóa: “truyền hạt gạo”, “truyền lửa”, “truyền tiếng nói”, “mang theo tên xã tên làng”,… .. từ đó xây dựng nền tảng cho sự phát triển bền vững của quốc gia.
Tư tưởng, cảm hứng cốt lõi bao trùm toàn bộ đoạn trích: “Đất nước này là đất nước của nhân dân, xứ sở của ca dao thần thoại”, đất nước ấy được thể hiện qua tâm hồn con người: biết yêu, biết trân trọng nghĩa tình. , nỗ lực và biết chiến đấu vì đất nước.
Kết bài: đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
2. Bài mẫu 1 phân tích đoạn 4 bài thơ Đất nước:
Đất nước là nguồn cảm hứng bất tận cho thơ ca, nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có những cảm nhận riêng về đất nước nên đất nước, đất nước hiện lên nhiều màu sắc. Nếu như các nhà thơ cùng thời thường chọn cách nhìn đất nước bằng những hình ảnh hào hùng, đẹp đẽ hay cảm hứng lịch sử qua các triều đại thì
Khổ thơ 12 câu này trích trong phần II của bài Đất Nước, ca ngợi Đất Nước hùng vĩ, khẳng định một cách tự hào những phẩm chất cao quý của con người ta, dân tộc ta. Câu thơ mở rộng tới 13, 14, 15 chữ mà vẫn thanh thoát, nhịp nhàng, giàu nhạc điệu và nhạc điệu gợi cảm:
Tám câu thơ đầu nói về hình ảnh Đất Nước, một Đất Nước hùng vĩ, một đất nước hùng vĩ. Khắp nơi trên đất nước ta đâu đâu cũng có những danh lam thắng cảnh. Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái đã đi vào cổ tích. Nguyễn Khoa Điềm đã có một cái nhìn khám phá, nhân văn. Núi non, biển đảo ấy là do “những người vợ nhớ chồng”, hay những đôi trai gái yêu nhau đã “góp công”, đã “góp phần”, làm đẹp, tô điểm cho Đất Nước:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”.
núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định,… Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn không chỉ là thắng cảnh thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Nếu vợ “nhớ chồng” thì vợ chồng “yêu nhau” chỉ để “góp nước”, chỉ để “cống” núi Vọng Phu, hòn Trống Mái ấy mà thôi. Nếu tình vợ chồng khăng khít, nếu tình chồng vợ thủy chung thì đất nước mới có hình ảnh thú vị đó. Tác giả đã vượt ra khỏi danh nghĩa tầm thường để có một cách nhìn, cách thể hiện mới mẻ, nhân văn.
Hai câu tiếp theo ca ngợi vẻ đẹp của đất nước về mặt lịch sử và truyền thống. “Gót ngựa Thánh Gióng” đã để lại cho nước ta bao ao hồ vùng Hà Bắc ngày nay, 99 ngọn núi Voi Phong Châu đã quần tụ, chung tay “góp công dựng nước các Vua Hùng”. Những từ ngữ: “đi qua mà… ra đi”, “góp công xây dựng” đã thể hiện một cách giản dị và tự hào về sự thiêng liêng của Tổ quốc, khí phách anh hùng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc của đất nước. nhân dân ta trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”.Đất nước ta có núi cao, biển rộng, sông dài. Có dòng sông “đỏ nặng phù sa”. Có dòng sông Mã “bạch mã bờm”. Và còn có Cửu Long Giang dáng thơ ôm ấp vẻ đẹp huyền thoại:
“Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”.
Con rồng đã “nằm im” từ bao đời nay mà người phương Nam yêu quý, ấp ủ đã có “dòng sông xanh thẳm” cho quê hương nhiều phù sa nước ngọt, nhiều cá tôm, bốn bề biển cả bao la. những mùa lúa. Phải chăng nhà thơ trẻ đã thông qua vẻ đẹp của Cửu Long sông gấm để ca ngợi gấm vóc, con người Việt Nam rất tài hoa?
Quảng Nam, Quảng Ngãi là quê hương của Hoàng Diệu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng…, có núi Ân, sông Đà, núi Bút. Nhìn núi Bút Non Nghiên, Nguyễn Khoa Điềm không nói đến “cái tài của người tài” mà nghĩ về người học trò nghèo, về truyền thống hiếu học và lòng tôn sư trọng đạo của nhân dân:
“Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên”
Nghèo nhưng vẫn “góp” cho nước ta núi Bụt, làm rạng rỡ nền văn hiến Đại Việt. Nghèo về vật chất nhưng giàu trí tuệ và tài năng. Hạ Long trở thành một kỳ quan, một thắng cảnh là nhờ “con cóc, con gà đồng quê với nhau”. Và những tên làng, tên núi, tên sông như Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm… nơi cực Nam Tổ quốc đã “góp tên” đã mang bao mồ hôi, xương máu, máu. rừng, lấn biển, đào kênh, bắt cá sấu, săn hổ… làm? Nhà thơ đã có một cách diễn đạt giản dị mà thấm thía ca ngợi đức tính cần cù, siêng năng, dũng cảm trong lao động sáng tạo của nhân dân ta, khẳng định sức dân là vô cùng lớn, chủ đã “làm nên”. Đất nước vĩnh cửu”:
“Con cóc con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”.
Tám câu thơ với nhiều địa danh, cổ tích được nhà thơ nhắc đến thể hiện niềm tự hào, biết ơn Đất nước, Nhân dân. Các văn bản thơ – hình ảnh: vợ chồng, đôi trai gái, gót ngựa, 99 con voi, con rồng, cậu học trò nghèo, con cóc và con gà, con người… dưới ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm đều mang ý nghĩa tượng trưng, tiêu biểu cho tấm lòng trung nghĩa, trí tuệ và tài năng, tinh thần cần cù, dũng cảm… của dân tộc ta qua suốt chiều dài lịch sử. Chính những con người vĩ đại đã “góp công”, “cống hiến”, “để lại”,… làm cho đất nước giàu đẹp hơn. Nhà thơ đã đem đến cho những động từ – vị ngữ ấy (góp công, góp sức…) nhiều nghĩa mới, nhiều sắc thái biểu cảm với nhiều liên tưởng nhân văn.
Bốn dòng thơ cuối, giọng thơ vang lên thiết tha, ngọt ngào. Từ ngôn từ cụ thể, chất thơ được nâng lên tầm khái quát, tính chính thống kết hợp hài hòa với chất trữ tình đằm thắm:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”
Ruộng, gò… là hình ảnh của quê hương đất nước. Những tên núi, sông, làng, bản, cánh đồng, gò mả…, ở bất cứ đâu trên đất nước Việt Nam thân yêu đều mang “một hình bóng, một ước vọng, một nếp sống của tiền nhân”. Hình ảnh đất nước còn là tâm hồn, phong cách, ước mơ của cha ông ta, của cha ông ta bốn ngàn năm lịch sử. “Đời đã hóa núi sông ta” là câu thơ rất hay và đẹp ca ngợi tâm hồn Việt Nam, văn hóa Việt Nam. Từ “một” được lặp lại 3 lần, từ “ta” được lặp lại 2 lần kết hợp từ “ơi” với câu cảm thán tạo nên những vần thơ du dương về nhạc điệu, nồng nàn, say đắm, tự hào về cảm xúc. chạm. Vừa thơ mộng vừa hào hùng, vừa tha thiết thầm lặng. Vẻ đẹp con người thấm đẫm những dòng thơ hào hùng.
Tầm vóc của Đất nước, của dân tộc hiện diện sâu rộng, rộng khắp không chỉ trong phạm vi địa lý “mênh mông” mà còn trong dòng chảy thời gian, “rộng rãi” lịch sử bốn nghìn năm. Đoạn thơ trên tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm trong bài Đất nước. Đoạn thơ mở rộng mang đặc điểm của văn xuôi. Yếu tố chính luận và chất chữ tình, cảm xúc hòa quyện vào nhau làm cho lời thơ phong phú, ý tứ sâu sắc, mới mẻ. Đất nước hùng vĩ, con người anh hùng, cần cù, hiếu học, trung nghĩa thủy chung… được nhà thơ cảm nhận bằng tất cả niềm tin yêu và tự hào. Chất liệu văn học dân gian được tác giả vận dụng một cách sáng tạo.
Thông qua hình ảnh Đất Nước, nhà thơ ca ngợi tâm hồn của Nhân Dân, khẳng định bản lĩnh hiên ngang của giống nòi Việt Nam. Bản Chất Đất Nước do Nhân Dân tạo dựng nên. Nhân Dân là người làm chủ Đất Nước. Thơ chân chính khơi gợi tâm hồn trở nên trong sáng, phong phú và cao thượng. Đoạn thơ như một tiếng “ngọt ngào” tình cảm, nhà thơ như đang trò chuyện cùng ta về Đất nước và Con người. Đọc lại bài thơ, mỗi chúng ta đều bùi ngùi, xúc động khi nghĩ về hai tiếng Việt Nam thân yêu, tự hào mình đã lớn lên cùng Đất Nước.
3. Bài mẫu 2 phân tích đoạn 4 bài thơ Đất nước:
Trong đoạn trích “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có hai câu thơ đã thể hiện được tư tưởng cốt lõi của toàn bộ tác phẩm:
“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Nói về lịch sử mấy ngàn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không dùng những sử liệu như nhiều nhà thơ khác. Ông dùng lối kể đậm đà của dân gian:
“Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Phải chăng hình ảnh thơ gợi cho ta nhớ đến lịch sử sự tích trầu cau từ thời Hùng Vương dựng nước, truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh giặc Ân? Tức là lịch sử đất nước được lưu giữ trong từng câu chuyện, hiện ra trong “miếng trầu bà ăn”, trong “cây tre đánh giặc”. Nói cách khác, đất nước đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân, trường tồn trong đời sống tinh thần của nhân dân từ bao đời nay. Đó cũng là “đất nước của nhân dân”.
Vì vậy, khi nghĩ về lịch sử hàng nghìn năm của đất nước, tác giả không ôn lại các triều đại “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần mấy đời dựng nền độc lập” (Nguyễn Trãi). Cũng không nhắc lại tên những danh nhân anh hùng trong sử sách như Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung:
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…”
Mà Nguyễn Khoa Điềm đã nhấn mạnh đến muôn ngàn những con người bình dị vô danh:
“Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước”
Những con người vô danh đó là những con người vô tận đã có công dựng nước và giữ nước qua mọi thời đại. Họ không chỉ đánh giặc ngoại xâm mà còn sáng tạo và lưu truyền mọi giá trị vật chất, tinh thần cho muôn thế hệ. Cùng với “thời gian dài” là “không gian bao la” được tạo ra từ thuở sơ khai của thời gian. với truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ “Đất là nơi chim về Nước là rồng ở” – Một đất nước đẹp đẽ và linh thiêng:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái”
Nhưng đất nước cũng là cái không gian rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày của mỗi người dân “Đất là nơi anh đến trường. Nước là nơi em tắm” và đất nước ấy đã chứng kiến những mối tình đầu của biết bao lứa đôi:
“Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Từ quan niệm “Đất nước của nhân dân” tác giả đã có những khám phá sâu sắc, mới mẻ về vẻ đẹp thiên nhiên đất nước gắn liền với con người mà trước hết là những con người bình dị. Và chính những con người bình dị ấy đã tạo nên vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên đất nước, một vẻ đẹp không chỉ mang màu gấm của sông núi mà còn là kết tinh của vẻ đẹp tâm hồn và truyền thống dân tộc:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại”
Và rồi “thằng học trò nghèo góp nước núi Bút, núi Nghiên”, đến những nơi rất đỗi bình dị. “Những người góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm”. Từ đó, tác giả đi đến một sự khái quát sâu sắc:
“Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”
Đất nước ấy còn có bề dày văn hóa, tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Cũng như hai khía cạnh trên, bề dày văn hóa không được đề cập qua các danh nhân văn hóa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Ngô Thì Nhậm… mà được thể hiện trong nguồn văn hóa dân gian phong phú. chuyển tải tinh thần và vẻ đẹp tâm hồn nhân dân thấm nhuần tư tưởng “Đất nước của nhân dân, của dân ca thần thoại”. Trong kho tàng văn hóa phong phú đó, tác giả tìm thấy những nét đẹp nổi bật của tâm hồn và nhân cách Việt Nam. Đó là tình yêu nồng nàn, thủy chung: “Yêu nhau từ trong nôi”; “Cha mẹ thương nhau bằng muối gừng cay”; Biết giá trị của lòng biết ơn: “Biết rằng quý nhân giữ vàng trong những ngày đi đường”. Nhưng cũng rất quyết liệt với kẻ thù: “Hãy biết trồng tre chờ ngày thành đòng. Trả thù nhà không sợ lâu.” Ba khía cạnh quan trọng nhất của truyền thống dân tộc và dân tộc đã được ông thể hiện sâu sắc và sâu sắc từ những làn điệu dân ca đẹp – tiếng nói của lòng người qua từng giai đoạn lịch sử.
Tóm lại, qua đoạn trích “Đất nước”, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định một chân lý: Đất nước này là đất nước của nhân dân, của những câu ca dao thần thoại. Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu sắc thêm quan niệm về đất nước của thơ ca chống Mĩ. Suy nghĩ về nhân dân của nhà thơ cũng giống như bài thơ sau:
“Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
Và cứ thế nhân dân cao vòi vọi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời”
( Những người đi tới biển, Thanh Thảo)
4. Bài mẫu 3 phân tích đoạn 4 bài thơ Đất nước:
Thơ Việt Nam ba mươi năm chiến tranh là một bản hợp xướng những bài ca, giai điệu ngọt ngào về đất nước. Chúng ta không thể quên một “đất nước hình tia chớp” trong thơ Trần Mạnh Hảo hay một đất nước như “bà mẹ sớm chiều gánh nặng nhẫn nại nuôi con cho đời êm ấm” trong thơ Tố Hữu. Đề cập đến chủ đề Đất nước trong văn học cách mạng sẽ là chưa đầy đủ nếu không nhắc đến Đất nước được trích trong Bài ca khát vọng với tư tưởng nhân văn tiến bộ: “Đất nước của nhân dân”.
Ở mỗi thời đại khác nhau lại có những quan điểm khác nhau về đất nước. Nếu như thời trung đại quan niệm đất nước phải thuộc về vua, lãnh thổ do vua cai trị: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”. Thời cận đại, khi bàn về trị nước, Phan Bội Châu cho rằng: “Dân là của dân, nước là nước của dân”. Tư tưởng trên tuy đã thể hiện tư tưởng tiến bộ hơn so với thời cận đại nhưng vẫn mang nặng tư tưởng nhà nước phong kiến phương Đông và tư tưởng tư sản. Chỉ đến thời đại Hồ Chí Minh, các nhà thơ mới cảm nhận sâu sắc nhất, sâu sắc nhất tư tưởng Đất nước là của nhân dân, của đại đa số quần chúng nhân dân:
“Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”
(Nguyễn Đình Thi)
Trước hết, suy từ về đất nước trên chiều rộng lãnh thổ đó là điều không mới, nhưng chỗ đặc sắc nhất của Nguyễn Khoa Điềm là ông không gắn lãnh thổ với đế cư, với thiên thư mà gắn với nhân dân vĩ đại:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi””
Theo cảm nhận của nhà thơ, “Đất nước” là không gian vô cùng gần gũi thân thương, là một cõi đầy thơ mộng, ngọt ngào gắn với bao kỉ niệm của tình yêu mỗi con người.
Và:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Đất nước đã trở thành một phần thiêng liêng trong cuộc sống của mọi người. Mỗi người chỉ góp một phần nhỏ để làm nên đất nước. Vì vậy, xây dựng, bảo vệ và hy sinh vì Tổ quốc là trách nhiệm cao cả của chúng ta vì “Đất nước này là đất nước của nhân dân”. Khi nghĩ về “Đất Nước” dưới góc độ lịch sử, điều đó không mới. Nhưng cái mới lạ của nhà thơ là khi nói về lịch sử mấy ngàn năm của đất nước, ông không dùng tư liệu lịch sử như các nhà thơ khác:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”
(Nguyễn Trãi)
Cũng không nhắc đến những anh hùng hữu danh trong lịch sử:
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc.
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…”
(Nguyễn Đình Thi)
Mà Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh đến muôn vàn con người bình dị vô danh nhưng lại hết sức lớn lao phi thường:
“Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Họ còn sáng tạo và truyền lại cho thế hệ sau:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái”
Họ là ai? Phải chăng là những người anh hùng hữu danh trong sử sách? Không, đó chỉ là một phần nhỏ bé trong chữ họ mà thôi. Họ ở đây lớn lao hơn nhiều, là nhân dân là cha ông thuở trước. Chữ “họ” được đứng ở chữ đầu dòng thơ và được điệp lại cho thấy vai trò lớn lao vĩ đại của nhân dân đối với Đất nước.
Các động từ “giữ – truyền – gánh” cho ta một cảm nhận sự tiến hóa của lịch sử Việt Nam giống như một cuộc lao động lớn mà ở đó có sự tiếp sức không ngừng nghỉ của các thế hệ nhân dân. Họ đã tạo ra từ hạt lúa với nền văn minh lúa nước, ngọn lửa được tạo nên bởi bước tiến của loài người đến những của cải tinh thần quý báu như phong tục tập quán lâu đời: tên xã, tên làng, giọng nói cha ông… Như vậy, nhân dân chính là người làm nên giá trị tinh thần và vật chất cho Đất nước.
Khi nói về Đất nước trong chiều sâu văn hóa, Nguyễn Khoa Điềm không nhắc đến các danh nhân như Nguyễn Trãi. Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương mà nêu lên những truyền thống tinh thần của nhân dân:
“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó”
Những truyền thống văn hóa lâu đời nhưng giản dị được nhà thơ nhắc lại với niềm tự hào sâu sắc. Thành công đầu tiên trong việc thể hiện tư tưởng nhân dân đó là Nguyễn Khoa Điềm đã chọn cho mình chất liệu văn học dân gian phù hợp, dẫu biết rằng chất liệu trong hình thức nghệ thuật cũng chính là chất liệu tạo nên câu thơ chính là tấm lòng của nhà thơ. họa sĩ. Văn học dân gian thể hiện ở việc sử dụng tục ngữ, ca dao, truyền thuyết, v.v.
Ngoài ra, sự kết hợp với giọng thủ thỉ có sức lay động mạnh mẽ tâm hồn người đọc. Đất nước là một đề tài lớn nhưng khi đi vào thơ Nguyễn Khoa Điềm không hề khô khan mà đi vào lòng người như một lời ru, một khúc hát. Hình thức câu thơ phóng khoáng với những câu thơ trải dài, nhịp nhàng góp phần thể hiện thành công tình đất nước.
Như vậy, qua đoạn trích “Đất Nước”, tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân” là tư tưởng cốt lõi mà nhà thơ muốn gửi gắm.
5. Bài mẫu 4 phân tích đoạn 4 bài thơ Đất nước:
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Viết về kháng chiến bằng những trải nghiệm chân thực với hồn thơ giàu chiêm nghiệm, lắng đọng, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện tấm lòng yêu nước và cái tâm của một trí thức tích cực tham gia chiến đấu của nhân dân. “Đất Nước” là đoạn trích đặc sắc trong trường ca Mặt đường khát vọng, thể hiện rõ tài năng và tâm huyết của Nguyễn Khoa Điềm. Qua bài thơ, tác giả đã thể hiện những tình cảm riêng, độc đáo về đất nước.
Trong bài thơ Đất nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện sự sáng suốt khi phát hiện ra những cách diễn đạt mới của khái niệm “đất nước”. Trước hết, đây là những phát hiện mới về khía cạnh không gian địa lý của đất nước:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước nhưng núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương”
Trong cảm nhận của nhà thơ, không gian địa lý, địa danh, hình hài đất nước được tạo nên từ những gì gần gũi, thiêng liêng nhất bởi nó là hiện thân của con người: Hòn Vọng Phu được tạo nên từ nỗi nhớ chồng, thủy chung của người vợ. của đôi trai gái làm nên hòn Trống Mái, đó còn là những địa danh được hun đúc từ truyền thống đánh giặc anh dũng, bất khuất “gót chân Thánh Gióng” từ trong văn hóa. phú quốc “chín mươi chín con voi”.
Những con người, những con người bình thường cùng chung sống trên đất nước, đó là những con người vô danh, nhưng chính những con người vô danh này đã cùng nhau xây dựng nên tên tuổi của đất nước. Mỗi người đều thầm lặng đóng góp vào vẻ đẹp và sự kỳ diệu của thiên nhiên cũng như làm phong phú thêm truyền thống văn hóa của đất nước.
“ Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Đất nước là hiện thân, là hình ảnh của những con người, những con người vô danh làm nên hình hài, diện mạo của đất nước. Không chỉ hướng ngòi bút của mình đến sự giàu đẹp của thiên nhiên đất nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm còn thể hiện những suy tư triết lí sâu sắc về vẻ đẹp tâm hồn con người và lịch sử Việt Nam. Chính truyền thống hiếu học, tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam đã tạo nên truyền thống hào hùng, tự hào của dân tộc.
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”
Từ những cuộc đời, những hóa thân cụ thể, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ gắn bó giữa thiên nhiên và con người, giữa đất nước và nhân dân. Cũng qua khổ thơ, tác giả bày tỏ niềm tự hào về vẻ đẹp của thiên nhiên, hình dáng quê hương và những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc. Đó cũng là thái độ yêu quý, trân trọng và tự hào về những đóng góp to lớn của các thế hệ đi trước.
Đất Nước là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và chất chiêm nghiệm chính trị, mang lại những giá trị tư tưởng độc đáo cho tác phẩm. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng linh hoạt chất liệu dân gian và đưa vào những yếu tố văn hóa đậm nét, nổi bật để thể hiện những cảm nhận độc đáo về đất nước.
Đoạn thơ đã thể hiện những suy nghĩ về đất nước của nhân dân của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, đây cũng là một đóng góp mới, độc đáo về đề tài đất nước. Đất nước đã mang đến cho người đọc nhiều cảm xúc tự hào, khơi dậy tinh thần trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước.
THAM KHẢO THÊM: