Việt Bắc và Từ ấy là hai tác phẩm tiêu biểu trong kho tàng văn thơ của Tố Hữu. Hai bài thơ thể hiện rõ nét cái tôi trữ tình và sự trưởng thành trong tư tưởng của người chiến sĩ cách mạng. Dưới đây là bài văn liên hệ và so sánh hai tác phẩm Việt Bắc và Từ ấy của Tố Hữu.
Mục lục bài viết
1. Dàn bài liên hệ và so sánh hai tác phẩm Việt Bắc và Từ ấy của Tố Hữu:
Mở bài:
Giới thiệu về bài thơ
Liên hệ đến cái tôi trữ tình trong bài thơ Từ Ấy.
Thân bài:
a. Khái quát về bài thơ, đoạn thơ:
Việt Bắc” được sáng tác vào năm 1954, sau khi miền Bắc giành được chiến thắng Điện Biên Phủ và được giải phóng.
Bài thơ thể hiện tình cảm sâu nặng của người ra đi với quê hương Việt Bắc, cùng với sự kết nối mật thiết giữa người Việt Bắc và người cách mạng.
b. Cảm nhận về nội dung, nghệ thuật đoạn thơ:
* Về nội dung:
Đoạn thơ khẳng định tấm lòng trước sau như một, nỗi nhớ sâu sắc trào dâng, tình cảm ân tình giữa kẻ đi với người ở. Cảnh sắc thiên nhiên, cuộc sống sinh hoạt, kỉ niệm kháng chiến lần lượt hiện ra sâu sắc, chân thực trong ký ức người ra đi.
Hai dòng đầu:
– Từ “đây – đó” thể hiện vị trí liền kề, gắn bó.
– Cụm từ “đắng cay ngọt bùi” chỉ những năm tháng chiến tranh gian khổ và nhiều niềm vui
=> Hai câu thơ diễn tả sự gắn bó mật thiết giữa người Việt Bắc với người chiến sĩ cách mạng, cùng chịu gian khổ, chia sẻ niềm vui trong những năm tháng chiến đấu ở Việt Bắc.
Hai câu tiếp:
– Hình ảnh “củ sắn lùi, bát cơm, chăn lùi” đi với những từ ngữ “chia, sẻ, cùng” cho thấy sự thiếu thốn, khổ cực trong những ngày tháng kháng chiến, nhưng họ vẫn cùng nhau chia sẻ từng miếng cơm, manh áo.
=> Hai câu thơ chứa đựng bao tình nghĩa sâu đậm, thắm nồng, tất cả những khoảnh khắc ấy sáng mãi trong lòng người ra đi, tâm trí người ở lại, ghi dấu ấn không thể xóa nhòa.
Hai câu thơ tiếp theo:
– “Người mẹ nắng cháy lưng”, “địu con” hình ảnh người mẹ tần tảo chắt chiu, cần cù lao động
– Là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp của con người lao động.
Bốn câu cuối:
– Nhớ về Việt Bắc là nhớ về cuộc sống sinh hoạt kháng chiến một thời:
– Nhớ “lớp học i tờ” cho thấy ánh sáng cách mạng đem đến cho nhân dân không chỉ tự do mà còn đem đến ánh sáng của tri thức;
– Nhớ nhịp sống những “ngày tháng cơ quan”, ”gian nan vẫn ca vang núi đèo” gợi tinh thần lạc quan, yêu đời và đầy nhiệt huyết của cán bộ chiến sĩ bất chấp khó khăn;
– Nhớ những thanh âm đặc trưng của miền núi: tiếng mõ rừng chiều, tiếng chày đêm nện cối, tiếng suối xa, gợi lại cuộc sống bình dị ấm áp mà vui tươi nơi núi rừng Việt Bắc.
– Điệp cấu trúc “Nhớ sao”.
=>Nỗi nhớ Việt Bắc là nỗi nhớ dạt dào và trùng điệp vang mãi trong tấm lòng mỗi con người ra đi.
* Về nghệ thuật:
– Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết.
– Điệp từ “nhớ”, điệp ngữ: nhớ sao….nhớ người… trùng điệp và cách ngắt nhịp của câu thơ tạo nên nét nhạc thơ thật đằm thắm.
– Hình ảnh chân thực, bình dị, giàu sức gợi cảm.
c. Liên hệ với bài thơ “Từ ấy”
* Cái tôi trữ tình: là cách thức bày tỏ cảm xúc riêng của nhà thơ trước các vấn đề của xã hội, trước sự phát triển của lịch sử dân tộc; Tố Hữu là nhà thơ của lí tưởng cộng sản vì đời sống cách mạng luôn chi phối toàn diện và sâu sắc sự nghiệp sáng tác thơ của ông.
* Phân tích, chứng minh, bình luận:
Quá trình sáng tác của Tố Hữu song hành với hành trình cách mạng, các chặng đường thơ ca của ông tương ứng với các giai đoạn cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
– Bài thơ “Từ ấy”:
+ “Từ ấy” là tập thơ đầu tay của Tố Hữu, có vị trí đặc biệt trên con đường thơ của ông.
+ Bài thơ được ông viết khi được đứng trong đội ngũ Đảng, nó chứa đựng một cá tính mạnh mẽ, một khí chất say sưa, một quan niệm cá nhân cởi mở giữa những người đồng chí đã làm cho cái tôi nhà thơ được bộc lộ tự do, không hề bị trói buộc bởi bất kỳ công thức, chuẩn mực nào, tạo nên những vần thơ đẹp, xúc động, đầy men say, bay bổng bậc nhất trang thơ ca cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX.
+ Bài thơ còn thể hiện niềm vui, niềm hạnh phúc, phấn khởi của chàng thanh niên giác ngộ lý tưởng cách mạng.
+ Qua “Từ ấy”, Tố Hữu đã thể hiện một cái tôi cá nhân cảm tính, ở phương diện tích cực, mạnh mẽ.
– Điểm giống:
+ Cái tôi cá nhân đã hòa chung với cái Ta của cộng đồng, dân tộc. Mình là ta – Ta là mình, như hòa quyện vào nhau, đan xen nhau. Tố Hữu đã đặt mình vào vị trí của những con người kháng chiến, bày tỏ những ân tình, lòng biết ơn sâu sắc đối với những ân tình cách mạng
+ Qua “Việt Bắc” nói chung và đoạn trích nói riêng, cái tôi trữ tình của Tố Hữu trong chặng đường thơ này là cái tôi công đồng nhằm làm nổi bật, tôn vinh lên hình tượng những con người kháng chiến, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình, niềm cảm phục trước sự hy sinh cao cả của người dân kháng chiến.
+ Khẳng định tính đúng đắn của nhận định “Ngay từ đầu, cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu đã là cái tôi chiến sĩ, càng về sau càng xác định rõ là cái tôi nhân danh Đảng, nhân danh cộng đồng, đất nước và dân tộc”.
Kết bài:
– Khát quát về giá trị nội dung và nghệ thuật hai bài thơ.
2. Bài văn liên hệ và so sánh hai tác phẩm Việt Bắc và Từ ấy của Tố Hữu hay nhất:
Khi nhắc đến Tố Hữu, ta nghĩ ngay đến bài thơ cách mạng “Việt Bắc” và biệt danh “Cánh chim đầu đàn”. Tố Hữu được coi là hồn thơ của dân tộc, với phong cách thơ trữ tình và chính trị đã khẳng định vị thế của ông trên thi đàn Việt Nam. Ông là một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa văn nghệ, và được so sánh với nhà thơ Sóng Hồng trong việc sử dụng bút làm đòn xoay chế độ, và văn chương của ông có sức công phá cường quyền. Theo lời Hồ Chí Minh, một nhà thơ cũng phải biết xung phong và có tinh thần quyết chiến. Khi Việt Bắc được giải phóng vào tháng 7 năm 1954, Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc để kỷ niệm sự kiện này. Bài thơ này không chỉ là một bản tình ca mà còn là một bản hùng ca mô tả bức tranh ra quân hào hùng của quân đội trong Việt Bắc.
“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Trong bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu mô tả những đường đi của quân đội Việt Bắc đầy hào hùng, với khát khao được làm chủ đất nước của mình. Tác giả sử dụng các từ láy như “đêm đêm” và “rầm rập”, kết hợp với phụ âm rung và thủ pháp so sánh, tái hiện lại âm hưởng hào hùng của cả một dân tộc hành quân ra trận.
Câu thơ trên miêu tả âm thanh vang vọng của đội quân hào kiệt, trong khi đó câu thơ dưới đặc biệt chú trọng vào việc mô tả hình ảnh. Tác giả sử dụng nghệ thuật tượng trưng để miêu tả quê hương đang chờ đợi sự giải phóng. Cây cối trơ trụi và bóng tối u ám là hình ảnh của một quê hương bị áp bức, bị chinh phục. Tuy nhiên, qua sự hy sinh của các anh hùng, quê hương sẽ được giải phóng và thắp sáng lên trong ánh nắng mới.
Bằng những hình ảnh đó, Tố Hữu thể hiện sự kiên cường, tinh thần quyết tâm của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến giành độc lập, tự do. Với những thủ pháp nghệ thuật tinh tế, ông đã khắc họa một bức tranh đẹp về tình yêu quê hương và sự hy sinh của những người con ghi danh vào lịch sử dân tộc.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
“Điệp điệp”, “trùng trùng” vốn dĩ là những từ láy để mô tả núi hoặc sóng, nhưng ở đây Tố Hữu đã khéo léo miêu tả vẻ đẹp của người dân Việt Nam hành quân ra trận, người người lớp lớp đông đảo như sóng cuộn điệp điệp trùng trùng. Hình ảnh này đã từng bước vào trang văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, làn sóng ấy lại vô cùng sôi nổi, nó lướt qua mọi khó khăn thử thách, nó nhấn chìm cả bọn bán nước và bè lũ cướp nước”.
“Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
Nếu hiểu theo nghĩa thực “Ánh sao” ở đây là ánh sao của bầu trời Việt Bắc phản chiếu vào nòng súng thép của anh bộ đội vào trận đánh quân thù. Thế nhưng, nếu ta hiểu theo nghĩa ẩn dụ, thì đây là lí tưởng cách mạng, là Đảng là Bác Hồ soi đường chỉ lối cho anh bộ đội vào trận đánh quân thù.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Nghệ thuật đảo ngữ “đỏ đuốc” phần nào gợi được sức mạng và sự đông đảo lực lượng hậu phương vững chắc của anh bộ đội, là những đoàn dân công quang gánh, xe thồ, ngày đêm tải đạn ra tiền tuyến. Và cũng chỉ có trong những bảo tàng lịch sử Việt Nam ta mới nhận thấy, có chiếc xe đạp mà có thể chở được 2 3 tạ đạn lên chiến trường thật phi thường. Thơ ca của nhà thơ Tố Hữu rất đồng điệu với thơ ca của Bác Hồ, khi mà hướng bắt đầu luôn luôn là hiện tại đến tương lai, từ bóng tối đến ánh sáng và ở đó là nghệ thuật nói quá và phóng đại làm cho vẻ đẹp của những con người Việt Nam bước ta từ trang sử vẻ vang của dân tộc.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Trong bức tranh thơ này, chúng ta thấy rõ sự tương phản giữa một bên là “thăm thẳm sương dày” và một bên là “đèn pha bật sáng”. Hình ảnh của ngọn đèn pha bật sáng như một biểu tượng cho sự phá vỡ của bóng tối và khó khăn trong những ngày đầu kháng chiến của dân tộc Việt Nam. Đó là những ngày mà chúng ta chỉ có vũ khí là giáo mác thô sơ, nhưng quân ta đã vươn lên với một sức mạnh kinh ngạc và thế tấn công dễ như chẻ tre. Điều đó đã đánh tan đi lớp sương dày của khó khăn, khi chúng ta đã có những đoàn xe ra tiền tuyến và những pháo binh ra mặt trận. Và bình minh huy hoàng của kháng chiến đã vẫy gọi toàn thể dân tộc Việt Nam đứng lên, sẵn sàng đánh đổi tất cả để giành lại chủ quyền và tự do cho quê hương.
Tám câu thơ trên là cảnh ra quân thì 4 câu thơ dưới là vẻ đẹp của khúc ca ăn mừng chiến thắng:
“Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Điệp khúc “vui” được lặp đi lặp lại 4 lần, phản ánh tiếng reo vui đầy phấn khởi của hàng triệu trái tim Việt Nam khi cùng chung tay đánh bại giặc ngoại xâm. Tác giả sử dụng nghệ thuật liệt kê, nhắc đến những chiến công vang dội như “Hòa Bình”, “Tây Bắc”, “Điện Biên”,… để khẳng định rằng chiến thắng sau còn hơn cả chiến thắng trước đó. Từ đó, chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp của Việt Bắc trong tác phẩm của Tố Hữu. “Việt Bắc” không chỉ là một bản tình ca mà còn là một hùng ca bi hùng bi tráng về cảnh ra quân, là những giai điệu tự hào trong thơ ca Việt Nam.
Tiếp đó ta thấy:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim…
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ…
Bài thơ “Từ ấy” là một tác phẩm văn chương đầy cảm hứng về lý tưởng cách mạng và ý chí chiến đấu của con người. Bài thơ được chia thành ba khổ thơ, mỗi khổ thơ đều mang đến một vẻ đẹp đặc trưng riêng.
Khổ thơ đầu tiên thể hiện niềm vui của tác giả khi bước vào cuộc sống cách mạng. Tác giả ví tâm hồn của mình như một khu vườn đầy hoa lá, nơi mà mặt trời chân lí soi sáng đến mức đánh bật bóng tối, giống như ánh sáng của triết học Mác Lênin, là Đảng chỉ lối cho con đường tương lai. Tác giả mê hoặc bởi tiếng chim hót trong khu vườn, nói lên niềm vui và hạnh phúc của con người khi sống và hưởng thụ cuộc sống trong một môi trường xã hội cách mạng.
Khổ thơ thứ hai của bài thơ thể hiện sự ý thức trách nhiệm của những chiến sĩ cách mạng. Họ phải gần gũi với quần chúng nhân dân, khơi dậy tinh thần đoàn kết dân tộc và giúp đỡ đồng bào trong mọi tình huống. Bài thơ liên tục sử dụng các từ “là anh”, “là em”, “là con”, đưa ra thông điệp rằng tất cả đồng bào, đồng chí cùng là một gia đình, tất cả đều chung một máu, chung một mục đích. Từ đó, sự thay đổi về ý thức trách nhiệm dẫn đến sự thay đổi về tâm tư tình cảm.
Khổ thơ cuối cùng của bài thơ “Từ ấy” đề cập đến nhiệm vụ quan trọng nhất của những chiến sĩ cách mạng, đó là phải xây dựng và thấu hiểu nỗi thống khổ của nhân dân. Điều này đòi hỏi họ phải dành nhiều thời gian để nghe và cảm nhận nỗi đau và khổ đau của người dân, và từ đó tìm ra những giải pháp hữu hiệu để giúp đỡ họ. Tác giả cho rằng đây là vẻ đẹp thực sự của cuộc sống cách mạng.
Trong văn chương, chúng ta thấy rằng phong cách viết của một nhà văn sẽ thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh. Ví dụ như nhà thơ Nguyễn Minh Châu trước năm 1975 thường viết về con người Việt Nam trong cuộc chiến đấu, sau đó thì chuyển sang viết về cuộc sống và trải nghiệm của bản thân với những triết lý sâu sắc. Tương tự, Nguyễn Tuân trước và sau năm 1945 cũng có sự khác biệt rõ rệt trong phong cách viết. Ví dụ như tác phẩm “Chữ người tử tù” khác hoàn toàn với “Người lái đò sông Đà” về cả nội dung và phong cách. Tóm lại, trong văn chương, phong cách viết của một tác giả sẽ thay đổi để phù hợp với hoàn cảnh và thời đại.
Bài thơ “Việt Bắc” và “Từ ấy” của Tố Hữu đều có điểm chung là phong cách sáng tác “trữ tình và chính trị” được thể hiện một cách nhất quán. Với vai trò là nhà thơ cách mạng, ông luôn ý thức được sức mạnh của ngòi bút và sử dụng nó như một vũ khí trên mặt trận văn hóa văn nghệ. Tác phẩm của ông không chỉ là những tác phẩm văn chương, mà còn là cuốn nhật kí về lịch sử Việt Nam. Điểm khác biệt giữa hai bài thơ này nằm ở nội dung. “Từ ấy” viết về niềm vui của tác giả khi đến với ánh sáng lí tưởng của cách mạng, trong khi “Việt Bắc” miêu tả những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Thể thơ của “Từ ấy” là lục bát, trong khi “Việt Bắc” không sử dụng thể thơ này. Tố hữu thật xứng đáng với danh xưng nhà thư kí trung thành của thời đại và tác phẩm của ông là những tấm gương xuyên suốt trên quãng đường Cách mạng Dân tộc.
3. Liên hệ và lập bảng so sánh giữa Việt Bắc và Từ ấy:
“Việt Bắc” và “Từ ấy” là hai tác phẩm thơ tiêu biểu của Tố Hữu, phản ánh những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của nhà thơ. Mặc dù có những khác biệt về chủ đề và hình tượng, hai bài thơ vẫn có những điểm chung đáng chú ý, cùng thể hiện tình yêu quê hương, đất nước và niềm tin vào cách mạng của nhà thơ.
Điểm chung:
- Thể hiện tình yêu quê hương, đất nước: Cả hai bài thơ đều bộc lộ tình yêu sâu sắc của nhà thơ đối với quê hương, đất nước. Trong “Việt Bắc”, tình yêu đó được thể hiện qua những hình ảnh cụ thể, sinh động về cuộc sống kháng chiến gian khổ nhưng đầy ý nghĩa. Còn trong “Từ ấy”, tình yêu đất nước được thể hiện qua sự thức tỉnh của một thanh niên trước cách mạng, một tình yêu sâu sắc và mãnh liệt.
- Niềm tin vào cách mạng: Cả hai bài thơ đều thể hiện niềm tin mãnh liệt của nhà thơ vào sự nghiệp cách mạng. Trong “Việt Bắc”, niềm tin đó được thể hiện qua hình ảnh những người dân Việt Bắc kiên cường, bất khuất. Còn trong “Từ ấy”, niềm tin đó được thể hiện qua sự giác ngộ của một thanh niên trước con đường cách mạng.
- Phong cách thơ trữ tình cách mạng: Cả hai bài thơ đều mang đậm phong cách thơ trữ tình cách mạng của Tố Hữu, với ngôn ngữ giản dị, hình ảnh giàu sức gợi, cảm xúc chân thành.
Điểm khác biệt:
Đặc điểm | Việt Bắc | Từ ấy |
---|---|---|
Thời gian sáng tác | Trong kháng chiến chống Pháp (1947) | Sau Cách mạng tháng Tám (1945) |
Không gian | Việt Bắc – căn cứ địa cách mạng | Không gian rộng lớn của đất nước |
Chủ đề chính | Tình cảm của người cán bộ cách mạng với đồng bào Việt Bắc, tình yêu thiên nhiên, đất nước trong kháng chiến. | Sự giác ngộ của một thanh niên trước cách mạng, tình yêu đất nước và lí tưởng cách mạng. |
Hình tượng trung tâm | Hình ảnh người dân Việt Bắc, thiên nhiên Việt Bắc. | Hình ảnh người thanh niên, con đường cách mạng. |
Tâm trạng | Vừa có nỗi buồn chia tay, vừa có niềm tin vào tương lai tươi sáng. | Sự phấn khởi, sôi nổi, tràn đầy nhiệt huyết. |
Liên hệ:
- “Từ ấy” là tiền đề cho “Việt Bắc”: “Từ ấy” là sự thức tỉnh của một thanh niên trước cách mạng, là động lực để người thanh niên ấy hòa mình vào cuộc kháng chiến. “Việt Bắc” là kết quả của quá trình tham gia kháng chiến, là sự thể hiện tình cảm sâu sắc của người chiến sĩ đối với đồng bào và quê hương.
- Cả hai bài thơ đều là những khúc ca ca ngợi vẻ đẹp của con người và thiên nhiên Việt Nam: Cả hai bài thơ đều ca ngợi vẻ đẹp của con người Việt Nam, của thiên nhiên Việt Nam, qua đó khẳng định sức mạnh và tinh thần bất khuất của dân tộc.
THAM KHẢO THÊM: