Bản Tuyên ngôn độc lập có cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn vững chắc, thể hiện tính chính danh và tính tất yếu của việc Việt Nam tuyên bố độc lập. Cùng chúng tôi phân tích cơ sở pháp lý và thực tiễn của Bản tuyên ngôn để thấy được những lập luận sắc bén của Bác nhé!
Mục lục bài viết
- 1 1. Dàn ý phân tích cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn độc lập:
- 2 2. Bài văn phân tích cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn độc lập:
- 3 3. Phân tích cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn độc lập hay nhất:
- 4 4. Phân tích cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn độc lập ngắn gọn:
- 5 5. Các ý chính về cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn độc lập:
1. Dàn ý phân tích cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn độc lập:
- Mở bài:
Giới thiệu tác giả tác phẩm
- Thân bài:
Cơ sở pháp lý của bản Tuyên ngôn độc lập:
+ Hồ Chí Minh viện dẫn hai bản tuyên ngôn của Mĩ và Pháp để làm cơ sở khẳng định quyền được hưởng tự do, độc lập của dân tộc. Đó là hai bản tuyên ngôn nổi tiếng thế giới của thế kỷ 18 – di sản tư tưởng của nhân loại.
+ Từ chỗ không đúng về quyền con người, Hồ Chí Minh đã nâng nó lên thành quyền dân tộc: “Nói rộng ra, câu đó có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, các dân tộc đều có giai cấp, đều có quyền sống, quyền quyền sung sướng và quyền tự do.” Tác giả đã giúp thế giới hiểu rằng các dân tộc đều bình đẳng vì họ đều là con người.
+ Nghệ thuật lập luận: thủ đoạn “gậy ông đập lưng ông”: dùng từ Pháp, Mỹ để nói hộ mình. Trích dẫn lời của Mĩ và Pháp ở phần đầu bản tuyên ngôn, người viết bày tỏ sự trân trọng, đánh giá cao đối với các bản tuyên ngôn của chủ nghĩa cộng sản… qua đó tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân. nhân dân thế giới, nhất là dư luận tiến bộ ở Pháp và Mỹ.
+ Mặt khác, Hồ Chí Minh gián tiếp đặt ba bản tuyên ngôn bình đẳng, ba nền độc lập ngang hàng nhau để thể hiện lòng tự hào dân tộc.
=> Lập luận đó còn rất vững vàng vì mượn lời Pháp, Bác đã ngầm cảnh báo bọn đế quốc thực dân rằng: Nếu tiếp tục xâm lược Việt Nam, chúng đã phản bội lại truyền thống của chủ nghĩa tư bản, những tư tưởng tốt đẹp của dân tộc, bôi nhọ lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái mà cha ông họ đã từng giương cao.
Cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn độc lập:
+ Bản cáo trạng tội ác của thực dân Pháp hòng phủ nhận công lao “khai hóa”, “bảo hộ” của chúng.
Về chính trị, chúng không cho nhân dân ta một quyền tự do dân chủ nào. Họ thực thi những luật lệ man rợ làm suy yếu chủng tộc của chúng ta.
Về kinh tế, chúng đã “bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy.
Chủ nghĩa quân phiệt: đó là khi phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp “quỳ gối mở cửa nước ta cho Nhật” và chỉ trong hai năm, Pháp đã hai lần bán nước ta cho Nhật. Khi thua trận, bị Nhật tước vũ khí, chúng đã sát hại dã man toàn bộ tù chính trị ở Cao Bằng.
+ Bản tuyên ngôn cũng phản ánh quá trình đấu tranh giành độc lập, khẳng định lập trường chính nghĩa của dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập vì:
Trong nhiều năm, Việt Nam là dân tộc phải mang nỗi đau bị xâm lược, Pháp là kẻ xâm lược.
Nếu thực dân Pháp hèn nhát phản bội Đồng minh, dâng Đông Dương cho Nhật thì nhân dân ta đã anh dũng đứng về phía Đồng minh chống phát xít.
Nếu thực dân Pháp hèn hạ, phản động, vô nhân đạo thì chúng ta luôn giữ thái độ khoan dung, nhân đạo: “Giúp bao người Pháp vượt biên, cứu bao người Pháp khỏi nhà tù Nhật, bảo vệ tính mạng và tài sản của họ”.
Không những thế, Việt Nam đã thực sự giành được tự do, độc lập. Việt Nam không còn là thuộc địa của Pháp vì Pháp đã bán rẻ chúng ta cho Nhật. Và sau đó, nhân dân ta đã tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám giành chính quyền từ tay Nhật, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Để khẳng định lợi ích quốc gia, ông dùng nhiều thủ thuật: điệp ngữ, đảo ngữ (câu bắt đầu bằng cấu trúc “sự thật là…”) nghe vừa chân thực vừa khẳng định sự thật. Hàng loạt dẫn chứng xác thực, không thể chối cãi như tái hiện trước mắt chúng ta những chặng đường bi tráng, hào hùng của dân tộc.
+ Nghệ thuật lập luận:
Ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật vừa chính xác, vừa truyền cảm: “đắm trong máu các cuộc nổi dậy của chúng ta”.
Điệp ngữ, ám chỉ cũng được sử dụng rất điêu luyện. Những câu mở đầu bằng từ “chúng” có sức nặng như búa tạ giáng xuống đầu quân thù và gợi nỗi đau trong lòng ta.
Nghệ thuật liệt kê kết hợp với những động từ mạnh đã hệ thống hóa hàng loạt tội ác chồng chất mà thực dân Pháp đã gây ra cho mọi tầng lớp từ nông dân đến thương gia, công nhân đến tiểu tư sản.
Kết bài: Đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
2. Bài văn phân tích cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn độc lập:
Trong lịch sử văn học cũng như lịch sử dựng nước và giữ nước, chúng ta đã có ba bản tuyên ngôn độc lập: “Nam quốc sơn hà” (Lý Thường Kiệt), “Đại cáo bình Ngô” (Nguyễn Trãi) và đặc biệt là Tuyên ngôn độc lập. “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh. Đánh giá về giá trị của tác phẩm, các ý kiến đều thống nhất khi khẳng định “Tuyên ngôn độc lập” vừa là văn kiện lịch sử vô giá, vừa là mẫu mực của văn chương chính luận. Cơ sở pháp lý và thực tế của bản tuyên ngôn là một điển hình của nghệ thuật lập luận đó.
Mở đầu bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh nêu cơ sở pháp lý của bản tuyên ngôn. Cụ thể, Bác đã dẫn chứng hai bản tuyên bố của Mỹ và Pháp là cơ sở khẳng định quyền được hưởng tự do, độc lập của dân tộc. Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 nêu rõ: “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Họ được Tạo hóa ban cho một số quyền bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.” Sau này, “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” năm 1791 của Pháp cũng nói: “Mọi người sinh ra đều tự do và có quyền bình đẳng”.
Cả hai tuyên bố này đều khẳng định sự thật về nhân quyền. Đó là hai bản tuyên ngôn nổi tiếng thế giới của thế kỷ 18 – di sản tư tưởng của nhân loại. Từ sự thật về quyền con người, Hồ Chí Minh đã nâng nó thành quyền dân tộc: “Nói rộng ra, đó là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sống và quyền sống, quyền có được hạnh phúc và tự do”.
Tác giả đã giúp thế giới hiểu rằng các dân tộc dù da đen hay da trắng, da đỏ hay da vàng đều bình đẳng vì đều là con người. Cách lập luận của Hồ Chí Minh thật tài tình vì tác giả đã dùng cách “gậy ông đập lưng ông” khi dùng những từ ngữ Pháp, Mỹ để nói chuyện với Người. Trong một cuộc tranh luận, không có gì thú vị hơn là dùng chính lời nói của đối phương để phản bác lại đối phương, khiến họ luôn trong tình trạng “há miệng mắc quai”. Bác đã dùng cây gậy độc lập đập lưng quân xâm lược, làm đổ máu và nước mắt của đồng bào, rao giảng tự do, bình đẳng.
Trích dẫn lời của Mỹ và Pháp ở phần đầu của bản tuyên ngôn, người viết bày tỏ sự trân trọng và đánh giá cao bản tuyên ngôn của những người cộng sản, qua đó tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới, nhất là dư luận tiến bộ ở Pháp và Mỹ. Mặt khác, Hồ Chí Minh gián tiếp đặt ba bản tuyên ngôn bình đẳng, ba nền độc lập ngang hàng nhau để thể hiện lòng tự hào dân tộc. Lập luận đó cũng rất kiên quyết bởi mượn lời Pháp, Mỹ, Bác Hồ đã ngầm cảnh cáo bọn đế quốc thực dân rằng: Nếu chúng tiếp tục xâm lược Việt Nam là phản bội truyền thống tư tưởng tốt đẹp của dân tộc , bôi nhọ lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái mà tổ tiên họ đã từng giương cao. Hành động vô nghĩa đó sẽ là nguyên nhân đẩy họ đến kết cục bi thảm. Lập luận ở phần đầu của Tuyên ngôn độc lập chặt chẽ, thuyết phục và sáng tạo. Đoạn mở đầu ngắn gọn và súc tích: chỉ hai câu trích dẫn, một bình luận mở rộng và một tuyên bố: “Đây là những sự thật không thể chối cãi” nêu bật cơ sở pháp lý vững chắc của quyền con người, cuộc sống, tự do dân tộc, tiêu biểu cho vẻ đẹp mẫu mực. của tiểu luận chính trị Hồ Chí Minh. Nó như một phát súng thổi bùng lên phong trào đấu tranh ở các nước thuộc địa trên thế giới.
Phần thứ hai của bản tuyên ngôn lại nêu cơ sở thực tiễn của bản tuyên ngôn độc lập. Trước hết, Người làm bản cáo trạng tội ác của thực dân Pháp để phủ nhận công lao “khai hóa”, “bảo hộ” của chúng. Pháp trá hình “khai hóa” Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng để hợp thức hóa việc trở lại Đông Dương và Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã tố cáo tội ác cả về chính trị và kinh tế để đập tan sự dối trá, lừa bịp đó: “Về chính trị, chúng hoàn toàn không cho nhân dân ta một quyền tự do, dân chủ nào. Việc thực thi pháp luật man rợ đã làm suy yếu chủng tộc.” Về kinh tế, chúng đã “bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, bóc lột công nhân một cách cực kỳ dã man”.
Pháp dùng chiêu bài “bảo hộ” Việt Nam thì Hồ Chí Minh vạch mặt quân đội để chối bỏ “quả báo” của chúng: đó là khi phát xít Nhật xâm lược Đông Dương và đô hộ chúng. Pháp “quỳ gối đầu hàng mở cửa nước ta cho Nhật” và chỉ trong vòng hai năm, Pháp đã hai lần bán nước ta cho Nhật. Khi thua trận, bị Nhật tước vũ khí, chúng đã sát hại dã man toàn bộ tù chính trị ở Cao Bằng. Với lập luận chặt chẽ, dẫn chứng xác thực, có cảm giác như Hồ Chí Minh đang quay bánh xe lịch sử để trả lại những tài liệu rất thật mà năm xưa kẻ thù không thể chối cãi. suốt 80 năm đô hộ Việt Nam. Tội ác đó đã làm cho hai triệu đồng bào ta chết đói, 95% dân số mù chữ, v.v.
Ngôn ngữ và hình ảnh nghệ thuật mà Người sử dụng vừa chính xác vừa truyền cảm: “chúng tắm các cuộc nổi dậy của chúng ta trong bể máu”. Câu văn cho thấy tội ác man rợ của giặc, hành động đàn áp thể hiện qua động từ “tắm” đã cho thấy bộ mặt thật của bọn thực dân tàn bạo, khát máu, đồng thời là nỗi xót xa, ngậm ngùi của nghĩa quân. Những người mất nước đang quằn quại trong những “vũng máu” đau đớn. Điệp ngữ, ám chỉ cũng được sử dụng rất điêu luyện. Những câu mở đầu bằng từ “chúng” có sức nặng như búa tạ giáng xuống đầu quân thù và gợi nỗi đau trong lòng ta. Nghệ thuật liệt kê kết hợp với những động từ mạnh đã hệ thống hóa hàng loạt tội ác chồng chất mà thực dân Pháp đã gây ra cho mọi tầng lớp từ nông dân đến thương gia, công nhân đến tiểu tư sản. Đó là cái tội mà “Trúc Lam Sơn viết không có tội/Nước Đông Hải rửa không sạch mùi” (Nguyễn Trãi).
Không chỉ vậy, bản tuyên ngôn còn phản ánh quá trình đấu tranh giành độc lập, khẳng định lập trường chính nghĩa của dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam không chỉ có quyền hưởng tự do và độc lập, mà thực sự có quyền hưởng tự do và độc lập. Trước hết, dân tộc Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Trong nhiều năm, Việt Nam là dân tộc phải mang nỗi đau bị xâm lược, Pháp là kẻ xâm lược. Nếu thực dân Pháp hèn nhát phản bội Đồng minh, dâng Đông Dương cho Nhật thì nhân dân ta đã anh dũng đứng về phía Đồng minh chống phát xít. Nếu thực dân Pháp hèn nhát, phản động, vô nhân đạo thì chúng ta luôn giữ thái độ khoan dung, nhân đạo: “giúp nhiều người Pháp vượt biên, cứu nhiều người Pháp thoát khỏi nhà tù Nhật, bảo vệ tính mạng và tài sản của họ” là cao cả những việc làm xứng đáng với truyền thống cao đẹp của dân tộc:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”
(Bình Ngô đại cáo).
Không những thế, Việt Nam đã thực sự giành được tự do, độc lập. Việt Nam không còn là thuộc địa của Pháp vì Pháp đã bán rẻ chúng ta cho Nhật. Và sau đó, nhân dân ta đã tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám giành chính quyền từ tay Nhật, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là kết quả tất yếu của những nỗ lực và hy sinh bền bỉ. Câu “Pháp chạy, Nhật đầu hàng, vua Bảo Đại thoái vị” cho thấy ba kẻ thù đã bị đánh bại: thực dân, phát xít và phong kiến. Chín chữ ngắn gọn đã đúc kết gần một nghìn năm lịch sử với những sự kiện trọng đại của dân tộc. Quân Pháp hốt hoảng bỏ chạy, quân Nhật quỳ gối đầu hàng, Bảo Đại tay run run trao ấn kiếm cho chính quyền Cách mạng, mọi rác rưởi được dọn sạch để một dân tộc mới ra đời. Để khẳng định lợi ích quốc gia, ông dùng nhiều thủ thuật: điệp ngữ, đảo ngữ (câu bắt đầu bằng cấu trúc “sự thật là…”) nghe vừa xác thực vừa khẳng định sự thật. Hàng loạt dẫn chứng xác thực, không thể chối cãi như tái hiện trước mắt chúng ta những chặng đường bi tráng, hào hùng của dân tộc.
Đưa ra những căn cứ pháp lý và thực tiễn cho việc tuyên bố độc lập là công việc khó khăn nhất, rất khó làm một cách khéo léo và thuyết phục, nhưng Hồ Chí Minh đã xử lý một cách khéo léo với những lập luận trí tuệ, sắc sảo, có sức thuyết phục. Cơ sở pháp lý và thực tiễn của bản tuyên ngôn đã chứng tỏ “Tuyên ngôn độc lập” là một bản luận cương chính trị mẫu mực, thể hiện tài năng của người con ưu tú của dân tộc Việt Nam – Chủ tịch Hồ Chí Minh.
3. Phân tích cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn độc lập hay nhất:
Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà tư tưởng lỗi lạc. Bản Tuyên ngôn Độc lập do Người soạn thảo và tuyên bố trước cả nước và quốc tế ngày 2-9-1945 là một tác phẩm có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Bản Tuyên ngôn Độc lập tuy ngắn gọn nhưng chứa đựng những nội dung chân thực, vượt thời gian.
Cơ sở thực tế: Xác định thời điểm lịch sử, nêu bật sự phi lý của thực dân Pháp (chính trị: thâm độc; kinh tế: dã man; tính chất: áp bức); nêu cao chính nghĩa của dân tộc Việt Nam (chiến đấu anh dũng, nhân đạo). Sự thật lịch sử: Kết quả của Cách mạng Tháng Tám -1945 là sự kiện khẳng định nền độc lập của nước Việt Nam.
Vào thời khắc lịch sử khi Tuyên ngôn ra đời, nền độc lập của dân tộc Việt Nam đang bị đe dọa trước nguy cơ xâm lược của đế quốc Mỹ và thực dân Pháp. Đẩy lùi hiểm họa đó phải là một cuộc đấu tranh vũ trang của cả dân tộc, nhưng cuộc đấu tranh đó đòi hỏi phải có thời gian chuẩn bị lực lượng và sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ. Vì vậy, chỉ xác lập cơ sở pháp lý thôi chưa đủ, cần phải thể hiện rõ sự bất công của bọn thực dân và đề cao quyền lợi của người dân Việt Nam.
Trước hết, thông qua những dẫn chứng cụ thể, xác thực, Tuyên ngôn đã vạch trần những hành động hoàn toàn phi đạo đức, vô đạo đức của thực dân Pháp. Chúng lợi dụng danh nghĩa “lập quốc”, “bảo hộ” núp dưới lá cờ “Tự do – bình đẳng – bác ái” để cướp nước, đàn áp đồng bào ta. Về chính trị, thực dân Pháp dùng những thủ đoạn thâm độc hòng tiêu diệt ý chí của nhân dân Việt Nam: tước bỏ quyền tự do, dân chủ của nhân dân ta, chia ba miền thành ba chế độ chính trị khác nhau cùng với phá vỡ tinh thần đoàn kết thống nhất của nhân dân ta, chúng thực hiện chính sách ngu dân, dùng rượu và thuốc phiện để đầu độc nhân dân ta. Về kinh tế, chúng dùng nhiều thủ đoạn dã man nhằm triệt tiêu sức chiến đấu của nhân dân Việt Nam, cướp ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu, giữ độc quyền xuất nhập khẩu, độc quyền in tiền, chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý để có thể vơ vét tiền bạc, của cải. Tất cả dẫn đến thảm cảnh 2 triệu đồng bào ta chết đói. Thực dân Pháp hèn hạ, vô nhân đạo vì không “bảo vệ” được nước ta mà ngược lại, chỉ trong 5 năm (1940-1945) chúng đã hai lần dâng nước ta cho Nhật. Tệ hơn nữa, chúng không hưởng ứng lời kêu gọi hợp tác chống Nhật của Việt Minh mà quay sang khủng bố Việt Minh, giết hại tù chính trị và những người yêu nước của nhân dân ta.
Bằng nghệ thuật so sánh, đối lập đầy sức thuyết phục, bản Tuyên ngôn đã thể hiện rõ những quyền thuộc về dân tộc Việt Nam. Nếu thực dân Pháp phạm tội phản bội Đồng minh, hai lần dâng Đông Dương cho Nhật, tiếp tay, tiếp sức cho phát xít mở rộng chiến tranh thì nhân dân Việt Nam, tiêu biểu là Việt Minh, đã anh dũng chiến đấu chống lại kẻ thù phát xít Nhật và cuối cùng giành độc lập cho dân tộc. Nếu thực dân Pháp thể hiện bản chất dã man, vô nhân đạo thì nhân dân Việt Nam lại thể hiện chính nghĩa khoan hồng, nhân đạo đối với kẻ thù bại trận.
Từ tất cả những điều đó, Tuyên ngôn đi đến những sự thật lịch sử quan trọng. Trước hết, có thể thấy rằng từ mùa thu năm 1940, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật chứ không phải của Pháp; Khi Nhật đầu hàng Đồng minh, nhân dân ta giành chính quyền từ Nhật chứ không phải từ Pháp. Điều đó có nghĩa là bác bỏ chủ quyền của Pháp đối với Việt Nam, đồng thời nói rằng nhân dân ta đã khẳng định nền độc lập của mình không chỉ bằng cơ sở pháp lý vững chắc mà còn bằng hành động cụ thể trong Cách mạng. Một sự thật hiển nhiên nữa là thực dân, phát xít, phong kiến đã qua, độc lập là một thực tế ở Việt Nam, dân tộc ta có một chính thể mới để bảo vệ nền độc lập của mình: Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Nhân dân ta đã phá bỏ xiềng xích gần 100 năm để dễ dàng xây dựng một nước Việt Nam độc lập. Nhân dân ta đã lật đổ chế độ quân chủ tồn tại hàng chục năm và lập nên nó một nước cộng hòa dân chủ”.
Tuyên ngôn Độc lập đã thức tỉnh, chấn động và khơi dậy lòng yêu nước, tự hào dân tộc, khẳng định tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tạo nên tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, đấu tranh, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, tự do của nhân dân.
4. Phân tích cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn độc lập ngắn gọn:
Vị lãnh tụ vĩ đại của đất nước ta không ai khác chính là Bác Hồ. Ông là danh nhân văn hóa thế giới mà ai cũng phải khâm phục. Ông đã để lại cho nền văn học nước nhà một kho tàng tác phẩm có giá trị. Và Tuyên ngôn Độc lập là một trong số đó. Tác phẩm được soạn thảo ngày 26-8-1945 tại số nhà 48 Hàng Ngang. Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản tuyên ngôn có kết cấu ba phần: cơ sở pháp lý – cơ sở thực tế – khẳng định.
Cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn không gì khác chính là tội ác của bọn thực dân và lập trường chính nghĩa của chúng ta. Để tố cáo bộ mặt thối nát của thực dân Pháp, Bác Hồ đã dùng một câu vừa khẳng định vừa tiêu cực. Bác vặn lại câu hỏi: “đã hơn 80 năm rồi”. Bác Hồ đã vạch trần những luận điệu xảo quyệt của thực dân Pháp và giáng một đòn phủ đầu vào chúng. Tội ác của bọn thực dân đã bị phơi bày trên nhiều phương diện: chính trị, văn hóa và kinh tế. “Về chính trị, chúng không cho dân ta chút tự do dân chủ nào, chúng áp đặt pháp luật một cách dã man, lập ba chế độ Trung, Nam, Bắc, chúng lập nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng trực tiếp tàn sát đồng bào ta. những người yêu nước và những người yêu nước.
Họ tắm cuộc nổi loạn của ta trong vũng máu; thi hành chính sách ngu dân; sử dụng rượu và ma túy để làm suy yếu chủng tộc của chúng tôi. Thực dân Pháp gọi An Nam là văn minh, văn hiến, tự do, bình đẳng, anh em nhưng ngược lại. Tất cả những tội danh trên đều đã thể hiện sự gian trá, dối trá của chúng. Về kinh tế, chúng bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, làm cho dân ta nghèo đi, nước ta loạn lạc. Chúng cướp đất đai, hầm mỏ, nguyên liệu. Họ giữ độc quyền in ấn, xuất khẩu và nhập khẩu tiền giấy.
Chúng đã đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho nhân dân ta, nhất là nông dân và thương gia trở nên nghèo nàn. Chúng không cho giai cấp tư sản chúng tôi ngẩng cao đầu. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng dã man. Để xem tội ác tích lũy của họ, ông đã sử dụng phương pháp lặp lại cú pháp của danh sách. Lời lẽ mạnh mẽ của ông thể hiện rõ lòng căm thù khiến người đọc, người nghe khơi dậy lòng căm thù khủng khiếp. Đặc biệt là hình ảnh “tắm cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu”. Hình ảnh này rất chân thực và có tính tố giác cao.
Nhưng tội ác của chúng chưa hết. Trong 5 năm chúng đã hai lần bán nước ta cho Nhật. Mùa thu năm 1940, Nhật vào Đông Dương, Pháp “quỳ gối đầu hàng”. Từ đó, nhân dân ta phải chịu 2 tầng xiềng xích của Pháp và Nhật, khiến hơn hai triệu đồng bào ta từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ chết đói. Chúng còn thẳng tay đàn áp, khủng bố Việt Minh của ta. Tội ác của chúng đã làm cho nhân dân ta khốn khổ. Chúng ta có quan điểm chính trị của mình. Đồng bào ta vẫn giữ một thái độ nhân đạo và bao dung. Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật. Khi Nhật đầu hàng Đồng minh, nhân dân ta trong cả nước đã nổi dậy giành chính quyền. Pháp tháo chạy, Nhật đầu hàng, vua Bảo Đại thoái vị, nhân dân ta phá bao lớp xiềng xích thực dân gần 100 năm dựng nước Việt Nam độc lập. Với giọng nói nhanh, sử dụng nhiều từ khẳng định: “sự thật là”, Người đã khẳng định thành công rằng chúng ta công bằng, Pháp là bất công, chúng ta có độc lập, tự do là tất yếu.
Tuyên ngôn Độc lập trước hết là một văn kiện lịch sử. Đó là tài liệu quan trọng nhất của nước ta. Để có được bản Tuyên ngôn Độc lập, biết bao đồng bào, đồng chí đã hy sinh trong suốt 80 năm chống Pháp. Tuyên ngôn Độc lập là một mốc son lịch sử, nó chấm dứt thời kỳ mất nước, thời kỳ nhân dân ta sống kiếp trâu ngựa làm nô lệ cho dân tộc, nó mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự do.
5. Các ý chính về cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn độc lập:
Cơ sở pháp lý:
- Những chân lý về quyền của con người và dân tộc: Tuyên ngôn khẳng định những chân lý phổ quát về quyền tự do, bình đẳng, tự quyết của con người và dân tộc, dựa trên các văn bản quốc tế như Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ (1776), Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp (1789).
- Luật pháp quốc tế: Tuyên ngôn viện dẫn những điều khoản của Hiến chương Liên Hợp Quốc về quyền tự quyết của các dân tộc, khẳng định tính chính danh của việc Việt Nam tuyên bố độc lập.
- Lịch sử Việt Nam: Tuyên ngôn nêu bật lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, khẳng định quyền tự chủ và độc lập của dân tộc.
Cơ sở thực tiễn:
- Thực trạng áp bức, bóc lột của thực dân Pháp: Tuyên ngôn vạch trần tội ác của thực dân Pháp, phơi bày sự áp bức, bóc lột tàn bạo của chúng đối với nhân dân ta, thể hiện nguyện vọng tha thiết về độc lập, tự do của nhân dân.
- Sức mạnh đoàn kết của dân tộc: Tuyên ngôn khẳng định sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc Việt Nam, thể hiện ý chí quyết tâm giành độc lập bằng mọi giá.
- Tình hình quốc tế thuận lợi: Chiến tranh thế giới thứ hai sắp kết thúc, phe phát xít thất bại, tạo điều kiện thuận lợi cho các phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
THAM KHẢO THÊM: