Triết học về ngôn ngữ là cuộc điều tra hợp lý về nguồn gốc của ngôn ngữ, bản chất của ý nghĩa , cách sử dụng và nhận thức ngôn ngữ cũng như mối quan hệ giữa ngôn ngữ và thực tế. Tham khảo bài viết dưới đây về Phân biệt đối tượng nghiên cứu của triết học với các môn khoa học khác.
Mục lục bài viết
1. Triết học là gì?
Triết học là nghiên cứu về nền tảng của sự vật; Giải quyết các vấn đề như sự tồn tại, đạo đức, vẻ đẹp, kiến thức, ngôn ngữ và sự thật. Hiện tại này ở Hy Lạp, với các nhà tư tưởng vĩ đại như Socrates và Aristotle, Vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên. Từ triết học là sự kết hợp của “philos”, có nghĩa là tình yêu và “sofia”, có nghĩa là trí tuệ.
Triết học đã có từ buổi bình minh của nền văn minh phương Tây. Thời kỳ hoàng kim của triết học Hy Lạp diễn ra ở Athens vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Các tác phẩm của Socrates, Plato và Aristotle đã thông báo hàng ngàn năm tư tưởng, trở thành trung tâm tư tưởng trong thế giới La Mã, thời Trung Cổ, và sau đó xuất hiện trở lại trong thời kỳ phục hưng và sau đó.
Bắt đầu từ đỉnh cao của nền cộng hòa La Mã, tư tưởng Cơ đốc giáo là trung tâm của triết học ít nhất là cho đến thời kỳ khai sáng. Vào thế kỷ 18, các câu hỏi làm thế nào chúng ta biết được những gì chúng ta tin rằng chúng ta biết (nhận thức luận), và các trường đạo đức mới bắt đầu hình thành. Vào cuối những năm 1800, các câu hỏi về ngôn ngữ, logic và ý nghĩa chiếm vị trí trung tâm, và thế kỷ 20 đóng vai trò chủ nhà cho một trong những đợt bùng nổ tác phẩm triết học lớn nhất từng thấy. Ngày nay, tư tưởng triết học được áp dụng cho hầu hết mọi thành phần của cuộc sống, từ khoa học đến chiến tranh, chính trị đến trí tuệ nhân tạo.
Triết học lấy toàn bộ thế giới làm đối tượng nghiên cứu, là một hình thức lý luận về sự tự hiểu biết, tự suy nghĩ và tự nhận thức của con người. Cái mà triết học quan tâm và thể hiện không hẳn là bản chất hay quy luật chân chính của giới tự nhiên mà là trạng thái hay cách thức tồn tại của bản thân con người. Triết học nghiên cứu những quy luật chung của tự nhiên, xã hội và sự phát triển của tư duy, thông qua sự trừu tượng hóa và khái quát hóa những tri thức này, nó làm bộc lộ những quy luật chung nhất, chung nhất tồn tại trong toàn bộ thế giới, cung cấp những lý luận về thế giới quan và phương pháp luận.
2. Khoa học là gì?
Khoa học là một thuật ngữ do người Châu Âu sáng tạo ra cách đây hơn 400 năm, là một chuẩn mực học thuật để nghiên cứu các hiện tượng và quy luật phát triển của các chất trong tự nhiên. Khoa học là loại tri thức phản ánh các sự kiện và quy luật khách quan, là một hoạt động nhận thức đặc biệt. Nhiệm vụ của khoa học là phản ánh bản chất và các quy luật của giới tự nhiên từ các khía cạnh khác nhau. Khoa học lấy một lĩnh vực nhất định, một vấn đề bộ phận nào đó làm đối tượng nghiên cứu, phát hiện những quy luật đặc biệt tồn tại trong một lĩnh vực nhất định, một khía cạnh nhất định, một trình độ nhất định. Dưới góc độ nội dung lý luận, cái mà khoa học cung cấp là một hệ thống tri thức về các loại chứng cứ về các đối tượng đặc biệt.
3. Phân biệt đối tượng nghiên cứu của triết học với các môn khoa học khác:
– Triết học không tập trung nghiên cứu một ngành khoa học nào, mà bao trùm tất cả chúng Triết học là nghiên cứu về nền tảng của sự vật; Giải quyết các vấn đề như sự tồn tại, đạo đức, vẻ đẹp, kiến thức, ngôn ngữ và sự thật. Nó tìm kiếm những mục đích sâu xa hơn của khoa học và thúc đẩy sự phê bình về chúng. Mặc dù có những biến thể khác nhau tùy theo vị trí địa lý, chẳng hạn như triết học Trung Quốc, Ả Rập, triết học phương Tây… Tất cả đều có điểm chung là tìm cách phân biệt chân lý vũ trụ bằng cách tách biệt thần bí và mê tín. Trong khi đo các môn khoa học cụ thể tiết lộ các quy luật và bí ẩn của một lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy nhất định.
– Sự khác biệt giữa khoa học và triết học là triết học là nghiên cứu về mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, ý thức và vật chất, chủ yếu thông qua tư duy; khoa học là nghiên cứu về mối quan hệ giữa vật chất và hình thức tồn tại của nó, chủ yếu thông qua các thí nghiệm hoặc điều tra. Tất nhiên, nghiên cứu khoa học đòi hỏi tư duy và ý thức, nhưng nó không nghiên cứu mối quan hệ giữa tư duy với ý thức và tồn tại vật chất, nghiên cứu triết học không loại trừ sự kiểm chứng bằng thực nghiệm, đồng thời cũng đòi hỏi những tư liệu thường nghiệm con người đều có. Việc xác minh thực nghiệm cần thiết cho nghiên cứu khoa học phải là một thử nghiệm đặc biệt mà hầu hết mọi người chưa từng trải qua.
– Triết học biểu hiện ở đối tượng nghiên cứu rất phổ quát và cũng đề cập đến tính chất toàn cầu và chung của việc quản lý nó với tư cách là một lối sống và một lối suy nghĩ. Trong khi đó các môn khoa học nghiên cứu lĩnh vực cụ thể, ví dụ như Khoa học tự nhiên là một trong những ngành khoa học liên quan đến việc mô tả, hiểu và dự đoán các hiện tượng tự nhiên, dựa trên bằng chứng thực nghiệm từ quan sát và thí nghiệm. Các cơ chế như đánh giá ngang hàng và tính lặp lại của các phát hiện được sử dụng để cố gắng đảm bảo tính hợp lệ của các tiến bộ khoa học. Khoa học tự nhiên có thể được chia thành hai nhánh chính: khoa học đời sống và khoa học vật lý . Khoa học đời sống còn được gọi là sinh học và khoa học vật lý được chia thành các nhánh: vật lý , hóa học , khoa học trái đất và thiên văn học .
– Triết học có thái độ phê phán đối với sự vật bởi vì nó không chấp nhận những giả định mà không có chứng minh. Nó phản đối thái độ giáo điều, nghĩa là không thừa nhận chân lý tuyệt đối như những nguyên tắc bất di bất dịch, không thể đem ra bàn luận. Triết học bác bỏ sự khuất phục và cuồng tín, đặc biệt là chủ nghĩa tôn giáo, vì nó không có cơ sở khoa học và có thể chứng minh được. Nó đặt ra những câu hỏi cấp tiến là gốc rễ của thực tế và sự tồn tại. Sự phê phán triết học dựa trên việc sống trong sự bất đồng thường xuyên, trong đó chúng ta phải tìm kiếm ý nghĩa của sự tồn tại. Trong khi đó Khoa học có thể được định nghĩa là một nghiên cứu và hiểu biết về các hiện tượng tự nhiên. Nó liên quan đến dữ liệu thực nghiệm, nghĩa là dữ liệu có thể được quan sát, kiểm tra và lặp lại. Nó có tính chất hệ thống và có một quá trình hành động cụ thể được sử dụng gọi là phương pháp khoa học. Khoa học giải thích dựa trên kết quả của các thí nghiệm, bằng chứng khách quan và các sự kiện có thể quan sát được. Tức là các môn khoa học chỉ là nhận thức khách quan và không trình bày quan điểm
4. Mối quan hệ giữa Triết học và các môn khoa học khác:
Khoa học bắt đầu như một phần của triết học. Sau đó, nó được gọi là triết học tự nhiên, nhưng khoa học đã tách khỏi triết học vào thế kỷ 17 và nổi lên như một lĩnh vực nghiên cứu hoặc lĩnh vực riêng biệt.
Triết học sinh ra khoa học, khoa học và triết học sơ khai ở thời kỳ nguyên thủy hội nhập, hai cái có cùng một nguồn gốc, triết học bao hàm khoa học, mà khoa học là một bộ phận của triết học. Trong quá trình phát triển lịch sử nhân loại, khoa học không ngừng có sự phân hóa độc lập với triết học. Khoa học tác động đến sự phát triển của triết học và thúc đẩy sự tiến bộ không ngừng của triết học, là nguồn gốc của sự nảy sinh và phát triển các tư tưởng triết học. Sự phát triển của khoa học định hướng cho tư duy của con người tiến bộ hơn, hiểu biết mọi việc rõ ràng hơn, hình thành thế giới quan đúng đắn. Triết học cung cấp cho khoa học sự hướng dẫn về thế giới quan và phương pháp luận, tác động đến sự khám phá của khoa học, khoa học cần có sự trợ giúp của triết học để ngày càng tiến bộ.
Khoa học và triết học bổ sung cho nhau và thấm nhuần lẫn nhau, nghiên cứu khoa học ngày càng thấm nhuần tinh thần triết học và triết học. Trong quá trình nghiên cứu khoa học cụ thể, phải kết hợp phương pháp khoa học với tư duy triết học để hiểu rõ hơn, nếu không vận dụng tâm linh theo nghĩa triết học thì nghiên cứu khoa học khó thành công. Có những nguyên tắc triết học sáng ngời trong khoa học, và những kết luận khoa học chặt chẽ trong triết học.
Kết luận:
Sự khác biệt: Khoa học cụ thể tiết lộ các quy luật và bí ẩn của một lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy nhất định; triết học tóm tắt và thăng hoa các quy luật và đặc điểm riêng lẻ, đồng thời trừu tượng hóa từ chúng những bản chất chung nhất và những quy luật phổ biến nhất của toàn thế giới.
Mối liên hệ:
1) Khoa học cụ thể là nền tảng của triết học, sự tiến bộ của khoa học cụ thể thúc đẩy sự phát triển của triết học.
2) Triết học định hướng thế giới quan và phương pháp luận cho các ngành khoa học cụ thể.
5. Phân biệt đối tượng nghiên cứu của triết học với xã hội học:
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về mối quan hệ giữa triết học và xã hội học. Một số quan điểm cho rằng xã hội học là một bộ phận của triết học. Nhưng quan điểm cho rằng triết học và xã hội học có mối quan hệ biện chứng là đúng đắn nhất vì hai ngành khoa học này có những điểm khác biệt rõ rệt.
Xã hội học là một môn học cụ thể có đối tượng nghiên cứu chủ yếu là cấu trúc của xã hội hoặc cơ cấu của xã hội cà các hành động của xã hội (hay còn gọi là hành vi) của con người trong môi trường sống.
Triết học là một môn khoa học xã hội mà đối tượng nghiên cứu chủ yếu là những vấn đề chung nhất của thế giới tự nhiên, của xã hội loài người và mối quan hệ của con người nói chung, của tư duy nói riêng về thế giới quan xung quanh.
Với bản chất là một hình thái xã hội, triết học có những đặc điểm riêng. Nó là một trong những hình thái ý thức cổ xưa nhất và quan trọng nhất. Ngày nay, vai trò của triết học ngày càng được quan tâm và quan trọng với quá trình phát triển của tri thức nhân loại. Có thể nói rằng, cùng với khoa học đạo đức, triết học sẽ mỗi tồn tại trong xã hội loài người.
Sự khác biệt của triết học so với các ngành khoa học khác ở điểm, triết học xem xét thế giới một cách chỉnh thể nhận thức bản chất của thế giới, vạch ra những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội, tư duy, phương tiện nhận thức về biến đổi thế giới.
Xã hội là một môn học cụ thể nó chỉ nghiên cứu những mặt riêng lẻ của hiện thức của xã hội. Xã hội nghiên cứu thông qua nhiều hình thức như: Quan sát, đối thoại, … để rút ra quy luật tồn tại, phát triển của xã hội và đời sống của con người.