Ý thức xã hội thông thường, thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt cuộc sống hàng ngày của con người, thường xuyên chi phối cuộc sống đó. Để tìm hiểu kĩ hơn, mời bạn đọc tham khảo bài viết Tồn tại xã hội là gì? Lấy ví dụ về tồn tại xã hội (Triết học)?
Mục lục bài viết
1. Tồn tại xã hội và các yếu tố cấu thành:
1.1. Khái niệm:
– Tồn tại xã hội là thuật ngữ dùng để mô tả đời sống vật chất và các điều kiện hoạt động vật chất của xã hội, là các mối quan hệ vật chất – xã hội giữa con người với thiên nhiên và giữa con người với nhau.
– Trong đó, quan hệ giữa con người với thiên nhiên và quan hệ vật chất, tinh thần giữa con người với thiên nhiên là hai quan hệ cơ bản. Những mối quan hệ trên xuất hiện trong quá trình hình thành xã hội con người và nó không lệ thuộc vào ý thức xã hội.
VD: Thời tiền sử, các bộ lạc săn bắt, hái lượm, sử dụng đá cuội làm công cụ. Công cụ còn rất thô sơ nhưng đã có những tiến bộ đáng kể trong kĩ thuật chế tạo, có nhiều loại hình cố định để phục vụ cuộc sống. Thời kì này con người nhận biết và sử dụng nhiều loại vật liệu từ đá cuội, đất, xương, ngà voi, tre nứa. .. Bên cạnh đó điều kiện thời tiết thuận lợi cùng với sự phong phú của những loài thực vật tạo thành nguồn nguyên liệu vô cùng quý giá
1.2. Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội gồm có:
– Một là, phương thức sản xuất ra của cải vật chất của xã hội đó.
Ví dụ: phương thức kỹ thuật canh tác lúa nước là yếu tố căn bản tạo nên điều kiện sinh hoạt vật chất cổ truyền của người Việt Nam.
– Hai là, những yếu tố thuộc về điều kiện thiên nhiên – hoàn cảnh xã hội, như: những điều kiện thời tiết, đất đai, sông ngòi, . .. tạo thành đặc trưng riêng biệt có của không gian sống của cộng đồng xã hội.
– Ba là, các yếu tố dân cư, gồm: hình thức tổ chức dân cư, đặc điểm lưu dân cư, trình độ phân bố dân cư, v.v.
Các yếu tố trên tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, ảnh hưởng lẫn nhau tạo nên điều kiện tồn tại và phát triển của xã hội, trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố quan trọng nhất. Bởi vì: trình độ của phương thức sản xuất vật chất sẽ quyết định mức độ ảnh hưởng của nó lên môi trường sống và mức độ tiến bộ xã hội như vậy nào.
Ví dụ: trong điều kiện khí hậu nhiệt đới, khô hạn, nhiều sông suối, . .. tất yếu làm hình thành nên phương thức trồng lúa là phù hợp nhất với người Việt Nam. Để thực hiện được phương thức ấy, người Việt buộc phải tập hợp lại thành hệ thống dân cư thôn, xóm, có tính chất ổn định lâu dài,…
2. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
2.1. Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội:
– Tồn tại xã hội là yếu tố hàng đầu, trong khi ý thức xã hội là yếu tố thứ hai. Bản chất của ý thức xã hội phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Tồn tại xã hội quyết định về nội dung, tính chất, đặc điểm và xu hướng biến đổi, phát triển của ý thức xã hội. Ý thức xã hội phản ánh sự logic khách quan của tồn tại xã hội.
– Sự biến đổi trong tồn tại xã hội là điều kiện cần để ý thức xã hội có sự biến đổi. Khi tồn tại xã hội, đặc biệt là phương pháp sản xuất, có sự biến đổi thì các từ ngữ, quan điểm về chính trị, pháp luật và triết lý cũng sẽ có những sự biến đổi không tránh khỏi.
– Tồn tại xã hội không chỉ ảnh hưởng trực tiếp và rõ ràng lên ý thức xã hội học mà còn thông qua những bước trung gian. Không phải bất kỳ suy nghĩ, quan niệm, lý thuyết, hình thức ý thức xã hội nào cũng phản ánh một cách rõ ràng và trực tiếp các mối quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi xem xét kỹ lưỡng mới ta có thể nhận ra được những mối quan hệ kinh tế được phản ánh thông qua các suy nghĩ này. Vì vậy, sự phản ánh của ý thức xã học về tồn tại xã hội phải được đối chiếu theo phương pháp biện chứng.
2.2. Tính độc lập tương đối ý thức xã hội:
Ý thức xã hội thường tồn tại với mức độ lạc hậu so với sự phát triển của xã hội. Lịch sử xã hội con người đã cho thấy rằng, dù một xã hội cũ đã chấm dứt từ lâu, ý thức xã hội do nó tạo ra vẫn tiếp tục tồn tại. Điều này được biểu hiện rõ nhất ở những khía cạnh khác nhau của tâm lý xã hội, bao gồm truyền thống, thói quen và đặc biệt là tập quán. Vì lí do này, V.I.Lênin đã từng khẳng định:”sức mạnh của tập quán trong hàng triệu và hàng chục triệu con người là một sức mạnh đáng kinh ngạc”.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này:
– Thứ nhất, do hoạt động thực tiễn của con người có ảnh hưởng mạnh mẽ và phong phú nên sự phát triển xã hội diễn ra nhanh chóng hơn khả năng phản ánh của ý thức xã hội.
– Thứ hai, do sự kiên trì và mạnh mẽ của các yếu tố như thói quen, tập quán, truyền thống và cả tính bảo thủ của hình thức ý thức xã hội. Hơn nữa, điều kiện mới của xã hội cũng chưa đủ để khiến cho những thói quen, tập quán và truyền thống cũ hoàn toàn biến mất.
– Thứ ba, ý thức xã hội liên quan chặt chẽ đến lợi ích của các tập đoàn hay giai cấp trong xã hội. Các tập đoàn hoặc giai cấp lạc hậu thường bám vào các ý niệm lạc hậu để bảo vệ và duy trì quyền lợi ích kỉ của mình, chống lại các lực lượng tiến bộ trong xã hội. Vì vậy, việc xây dựng một xã hội mới yêu cầu loại bỏ từng bước những suy nghĩ và ý thức xã hội cũ trong khi đồng thời phát triển và khắc phục sự thiếu sót bằng việc xây dựng ý thức xã hội mới. Tuy nhiên, khi tiến hành những công việc này không được vội vàng, không sử dụng những biện pháp hành chính như đã từng thấy ở các quốc gia XHCN và thậm chí ở nước ta trong quá khứ.
Ý thức xã hội có thể vượt xa sự hiện hữu của xã hội.
– Triết học Mác đã chấp nhận rằng ý thức xã hội thường chậm trễ so với sự tồn tại của xã hội, nhưng nó cũng có khả năng vượt lên trên sự tồn tại đó. Thực tế chứng minh rằng trong một số điều kiện đặc biệt, nhiều ý niệm khoa học và triết học có thể vượt xa sự tồn tại hiện tại của xã hội, và định hướng hoạt động của con người vào mục tiêu cụ thể. Lý do ý thức xã hội có khả năng làm được điều này là bởi nó phản ánh chính xác các mối quan hệ logic, khách quan, tất yếu và bản chất của sự tồn tại trong xã hội. Lịch sử đã cho thấy rằng nhiều dự báo từ các triết gia lớn chỉ được xác nhận sau một khoảng thời gian dài, ngắn hay dài tuỳ thuộc vào trường hop cụ thể. Nhiều dự báo từ C.Mác đã trở thành hiện thực trong thời đại chúng ta, khẳng định điều này một cách rõ ràng.
– Ví dụ, dự báo về vai trò của tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp đã được chứng minh thông qua cuộc cách mạng công nghệ số hiện tại, thời đại của trí tuệ nhân tạo và cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, thời đại của tri thức.
– Hoặc chẳng hạn như Chủ nghĩa Mác – Lênin là một ví dụ khác điển hình. Chủ nghĩa Mác-Lênin là tư tưởng của giai cấp công nhân, giai cấp cách mạng hàng đầu trong thời kỳ hiện tại. Mặc dù ra đời vào thế kỷ XIX trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản, nhưng Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra các quy luật vận động tự nhiên của xã hội loài người nói chung và xã hội tư bản nói riêng. Quá trình này đã cho thấy rằng xã hội tư bản sẽ được thay thế bởi xã hội cộng sản.
Ý thức xã hội có tính kế thừa.
Quá trình phát triển tinh thần của xã hội nhân loại cho thấy, các quan điểm lý luận và tư tưởng đột phá của thời đại luôn dựa trên những tiền đề đã tồn tại trong các giai đoạn lịch sử trước. Ngay từ C.Mác và Ph.Ăngghen, họ cũng đã công nhận rằng chủ nghĩa cộng sản phát triển một cách trực tiếp từ chủ nghĩa duy vật Pháp… Hơn nữa,”nếu không có triết học Đức, đặc biệt là triết học Hêghen, chúng ta sẽ không bao giờ có chủ nghĩa xã hội khoa học ở Đức, loại chủ nghĩa xã hội duy nhất tồn tại từ thời xa xưa.”Vì vậy, hoàn toàn tuân theo quy luật rằng chủ nghĩa Mác không chỉ tiếp thu những thành tựu cao quý trong lịch sử văn minh nhân loại mà còn kế thừa trực tiếp từ triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị Anh và xã hội không tưởng Pháp.
Trong quá trình phát triển của ý thức xã hội, việc kế thừa là không thể tránh khỏi, và không thể giải thích bất kỳ tư tưởng nào chỉ dựa trên mức độ phát triển kinh tế và các quan hệ kinh tế – xã hội hiện có. Ví dụ, mặc dù Pháp trong thế kỷ XVIII có sự phát triển kinh tế yếu hơn Anh nhưng về mặt lý luận, Pháp tiên tiến hơn rất nhiều so với Anh. Tương tự như vậy, mặc dù Đức vào đầu thế kỷ XIX phát triển kinh tế ít thành công hơn cả Anh lẫn Pháp nhưng triết học Đức lại vượt xa hai quốc gia đó. Điều này chứng tỏ rằng sự phát triển của ý thức xã hội không luôn đi song song với sự phát triển kinh tế và các quan hệ xã hội.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trong các xã hội giai cấp, các giai cấp khác nhau sẽ tiếp tục kế thừa những di sản khác nhau từ giai đoạn trước. Giai cấp tiến bộ đang trỗi dậy sẽ chọn kế thừa những tư tưởng tiến bộ của thời đại trước, trong khi đó, giai cấp lỗi thời và suy giảm luôn chọn tiếp thu những tư tưởng và lý thuyết bảo thủ, phản tiến bộ để cố gắng duy trì sự thống trị của mình.
3. Ví dụ về tồn tại xã hội:
Tồn tại xã hội là cuộc sống vật chất của cộng đồng, là khía cạnh vật chất và điều kiện tự nhiên, phương thức sản xuất trong xã hội. Ví dụ, Thời kỳ tiền sử là giai đoạn lịch sử Việt Nam được tính từ lúc con người bắt đầu hiện diện trên lãnh thổ Việt Nam cho đến khoảng thế kỉ I trước Công nguyên.
Thời kỳ tiền sử là thời kỳ mà bộ tộc săn bắt (hoặc hái lượm), sử dụng công cụ chế tác từ đá. Mặc dù công cụ còn rất nguyên thủy, nhưng đã có những tiến bộ đáng kể trong nghệ thuật chế tạo, đã xuất hiện nhiều loại công cụ ổn định để phục vụ cuộc sống hàng ngày. Trong giai đoạn này, con người đã nhận biết, khai thác và sử dụng nhiều nguyên liệu như đá, đất sét, xương, sừng và tre gỗ…
Bên cạnh việc có điều kiện khí hậu thuận lợi cho cuộc sống con người và mang lại một loạt các loài sinh vật và thực vật phong phú ở miền Nam, nguồn tài nguyên cũng rất đa dạng.