Triết học Mác-Lênin đã kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất trong tư duy triết học nhân loại. Nó đã được C.Mác và Ph. Ăngghen sáng tạo ra và được Lênin phát triển một cách rất xuất sắc. Vậy vai trò của triết học và triết học Mác-Lênin trong đời sống xã hội là gì?
Mục lục bài viết
1. Vai trò của triết học và triết học Mác-Lênin trong đời sống xã hội:
Vai trò của triết học và triết học Mác-Lênin trong đời sống xã hội sẽ được thể hiện qua các chức năng của nó như: chức năng về nhận thức, chức năng về đánh giá, chức năng về giáo dục… Nhưng quan trọng nhất vẫn là chức năng thế giới quan và chức năng của phương pháp luận
– Chức năng của thế giới quan:
Để nhận thức được một cách đúng đắn về chức năng, về vai trò của thế giới quan, trước hết là ta phải hiểu được khái niệm, hiểu được định nghĩa của nó. Mác-Lênin đã từng nói: “Thế giới quan chính là toàn bộ những quan niệm của chính con người về thế giới, về bản thân của mỗi con người, về cuộc sống và về vị trí của con người ở trong thế giới đó”.
Ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng, trong quá trình tồn tại và phát triển, những con người luôn có một mối quan hệ sâu sắc đối với lại thế giới xung quanh của mình. Nhưng khác với những loài vật vốn chỉ biết thích nghi như một cách thụ động và chậm chạp thì đối với con người vẫn không ngừng tìm cách biến đổi về thế giới đang sống nhằm để có thể phù hợp với những yêu cầu, với mục tiêu của bản thân. Trong suốt cả quá trình hình thành, biến đổi hay nhận thức và tiến hóa thì con người luôn theo đuổi trong việc tìm tòi, và tự đặt ra những câu hỏi như: Nguồn gốc của con người là từ đâu? Thế giới xung quanh là gì? Những cái gì chi phối đến sự tồn tại và biến đổi của mọi sự vật, hiện tượng ở trong thế giới xung quanh? Con người và thế giới có những mối quan hệ như thế nào?… Quá trình nảy sinh những nghi vấn về con người và về thế giới khách quan đang tồn tại ở xung quanh và tìm ra những câu trả lời cho mỗi nghi vấn ấy đã hình thành nên các quan niệm nhất định về thế giới, và trong đó những yếu tố thuộc về cảm xúc và về trí tuệ, về tri thức và về niềm tin đã hoà quyện vào nhau tạo thành một khối thống nhất. Và đó được hiểu chính là thế giới quan
Thế giới quan đóng một vai trò rất quan trọng ở trong đời sống của con người và trong xã hội loài người. Hoạt động của con người sẽ luôn chịu sự chi phối bởi một thế giới quan nhất định. Và dù muốn hay là không thì con người luôn cũng phải nhìn nhận về thế giới và nhận thức về ngay chính bản thân mình. Những yếu tố mà hình thành nên thế giới quan như là tri thức, là niềm tin, là lý trí, là tình cảm luôn có sự thống nhất với nhau và có sự thống nhất trong các hoạt động của con người, và cả trong hoạt động nhận thức lẫn cả hoạt động thực tiễn.
Vai trò của thế giới quan ở trong đời sống xã hội sẽ được thể hiện trên các mặt sau:
+ Một là, việc chỉ ra đúng các mối liên hệ chung giữa thế giới và vị trí của những con người trong thế giới sẽ giúp con người xác định được chính xác mục tiêu, các phương hướng hoạt động của bản thân. Hay nói cách khác là, thế giới quan chính là công cụ giúp cho những con người có thể định hướng được cuộc sống của chính bản thân bằng việc xác lập được những mục tiêu, những phương hướng hoạt động của riêng mình
+ Hai là, dựa vào những tri thức chung về thế giới và về bản thân con người, cùng với lại niềm tin và tình cảm được củng cố, được cải thiện trong thế giới quan, nó sẽ có thể chi phối hoạt động nhận thức và chi phối thực tiễn của con người ở các mức độ khá sâu sắc. Có thể nhận thấy rõ ràng là, nếu hiểu đúng về ý nghĩa của cuộc sống, con người sẽ có ý chí và có quyết tâm tích cực về hoạt động vì sự tiến bộ của chính xã hội và của bản thân. Trong thời đại ngày nay, khi những mối quan hệ xã hội ngày trở nên càng phức tạp, thì tính chủ động của con người lại càng được tôn trọng và tự do phát triển, cũng tức là các vai trò của thế giới quan cũng được ngày một được khẳng định và lớn mạnh hơn.
Triết học đã ra đời với tư cách chính là hạt nhân lý luận của thế giới quan, đã làm cho thế giới quan phát triển như là một quá trình tự giác dựa trên về sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và về tri thức do các khoa học đã đưa lại. Đó chính là chức năng của thế giới quan của triết học.
– Chức năng phương pháp luận:
Trong hoạt động của con người có rất nhiều phương pháp đã được áp dụng, chính vì thế quá trình để lựa chọn sử dụng phương pháp có thể là đúng hoặc sai. Nếu đúng, thì nó sẽ giúp ta thành công, còn nếu như sai nó sẽ dẫn đến thất bại. Đối diện với những vấn đề đó, thì nhu cầu phải nhận thức về khoa học, nhận thức đúng đắn về các phương pháp đã được hình thành và đã xuất hiện hay cũng chính là sự ra đời của các phương pháp luận. Phương pháp luận chính là hệ thống những nguyên lý, các quan điểm làm cơ sở cho việc xây dựng, việc lựa chọn, việc tìm tòi và việc vận dụng các phương pháp ở trong nhận thức và thực tiễn nhằm để đạt được mục đích để định sẵn. Có thể hiểu rằng là, phương pháp luận có một vai trò định hướng, vai trò gợi mở cho hoạt động về nhận thức và về thực tiễn, còn phương pháp chính là cách thức, thao tác các hoạt động cụ thể mà chủ thể sẽ phải tuân thủ và thực hiện nhằm để đạt được mục đích. Phương pháp luận có ba cấp độ, cụ thể như sau:
+ Phương pháp luận ngành: chính là phương pháp luận cho những ngành khoa học cụ thể.
+ Phương pháp luận chung: là các quan điểm, các nguyên tắc chung hơn cấp độ ngành, được dùng để xác định các phương pháp hay các phương pháp luận của nhóm ngành có đối tượng để nghiên cứu chung.
+ Phương pháp luận chung nhất (hay được gọi là phương pháp luận triết học): khái quát những quan điểm, những nguyên tắc chung nhất. Để lấy cơ sở xác định những phương pháp luận ngành, chung và những phương pháp hoạt động cụ thể của nhận thức và của thực tiễn.
Đối với nhận thức và đối với thực tiễn của con người, thì phương pháp luận rất quan trọng khi làm cơ sở, làm nền móng, và đóng vai trò định hướng cho việc xây dựng, việc tìm tòi và vận dụng các phương pháp nhằm để tác động lên đối tượng để đạt được các mục đích. Tầm quan trọng của phương pháp là rất lớn ở trên hành trình đi tới thành công và các phương pháp đó là phải thật đúng đắn, giống như Bêcon đã từng ví rằng phương pháp như là ngọn đuốc soi đường cho những người đi trong đêm tối; còn Hêghen ví phương pháp chính là linh hồn của đối tượng hay như những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin lại đặc biệt coi trọng về vai trò của phương pháp, nhất là ở trong hoạt động cách mạng vì nếu coi trọng, đề cao về phương pháp luận thì sẽ tránh được các tình trạng sai lầm do sự chủ quan duy ý chí và các phương pháp tư duy siêu hình đã gây ra. Tóm lại, để đạt được các mục đích thì phương pháp luận đã đóng vai trò rất quan trọng ở trong việc định hướng, việc xây dựng và vận dụng những phương pháp cho những con người trong cả nhận thức và cả thực tiễn.
Với tư cách chính là hệ thống tri thức chung nhất của mọi con người về thế giới và về vai trò của con người trong thế giới đó, cùng với việc là nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, của xã hội và tư duy, vai trò của triết học bên cạnh các chức năng thế giới quan thì sẽ còn thực hiện các chức năng phương pháp luận chung nhất
Triết học với vai trò chính là thế giới quan và là phương pháp luận chung nhất, nhưng nó không phải là một cái gì quá xa xôi, quá viển vông mà ngược lại, nó gắn bó hết sức mật thiết với cuộc sống, với thực tiễn, và là định hướng, chỉ đạo cho con người trong hành động. Cho dù là có tự giác hay là không thì khoa học hiện đại phát triển vẫn sẽ phải dựa trên cơ sở của thế giới quan và phương pháp luận. Có thể nói, triết học có một vai trò vô cùng quan trọng ở trong đời sống xã hội và càng ngày càng được đổi mới, phát triển và nâng cao.
2. Nguồn gốc của Triết học:
Triết học đã ra đời ở cả phương Đông và cả phương Tây gần như là cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ thứ VIII cho đến thế kỷ VII trước công nguyên).
Tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như là Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp.
Theo người Trung Quốc, thì thuật ngữ triết học có nguồn gốc ngôn ngữ chính là chữ triết và khoa học này được hiểu theo nghĩa là sự truy tìm về bản chất của đối tượng, triết học chính là trí, chính là sự hiểu biết sâu sắc của con người.
Theo người Ấn Độ, thì triết học được coi là Danshana, nó có nghĩa là chiêm ngưỡng nhưng lại mang hàm ý là trí thức dựa trên lý trí, chính là con đường suy ngẫm để dẫn dắt những con người đến với lẽ phải.
Ở phương Tây thì thuật ngữ triết học được xuất hiện ở Hi Lạp, theo tiếng Hi Lạp thì triết học là Philosophia, có nghĩa là yêu mến sự thông thái, và nó là khoa học vừa mang tính định hướng lại vừa nhấn mạnh đến khát vọng về tìm kiếm chân lý của con người.
Như vậy, ta có thể hiểu cho dù là ở phương Đông hay ở phương Tây, ngay từ đầu triết học đã là một hoạt động tinh thần biểu hiện được khả năng nhận thức, được đánh giá của con người, nó tồn tại với một tư cách là một hình thái ý thức xã hội.