Khi xã hội ngày càng phát triển như hiện nay, các mối quan hệ đòi hỏi đến sự đảm bảo pháp lý cao hơn, Luật sư cũng ngày càng khẳng định được vị trí và vai trò của mình, đây cũng là người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho khách hàng thông qua hoạt động bào chữa và tư vấn pháp lý. Vậy một bị cáo có được thuê nhiều Luật sư để bào chữa cho mình hay không?
Mục lục bài viết
1. Một bị cáo có được thuê nhiều luật sư bào chữa không?
Trong tố tụng hình sự, luật sư là người đứng trung gian giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người bị buộc tội. Luật sư có nhiệm vụ “giám sát”, tác động tới các cơ quan nhà nước đó thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, tránh trường hợp chủ quan và tránh oan sai. Đồng thời, còn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc góp phần tìm ra sự thật khách quan trong vụ án hình sự, góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị buộc tội (bị cáo).
Căn cứ theo quy định tại Điều 72 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về người bào chữa. Theo đó:
-
Người bào chữa là những cá nhân được người bị buộc tội do bào chữa; hoặc được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định để bào chữa và được cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa đó;
-
Người bào chữa có thể bao gồm: Luật sư, bào chữa viên nhân dân, người đại diện của người bị buộc tội, hoặc trợ giúp viên pháp lý (trong trường hợp người bị buộc tội thuộc một trong những đối tượng được quyền trợ giúp pháp lý);
-
Bào chữa viên nhân dân theo quy định của pháp luật là công dân mang quốc tịch Việt Nam trong độ tuổi từ đủ 18 tuổi trở lên, có thái độ trung thành với tổ quốc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có đầy đủ tư cách phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp luật đầy đủ, đảm bảo điều kiện sức khỏe để hoàn thành tốt chức năng nhiệm vụ được giao, được cơ quan có thẩm quyền đó là Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam cử tham gia hoạt động bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên trong tổ chức của mình;
-
Những người sau đây sẽ không được thực hiện hoạt động bào chữa, bao gồm: Người đã tiến hành tố tụng vụ án hình sự; người thân thích của người đó tiến hành tố tụng hoặc đang tiến hành tố tụng vụ án hình sự; người đang tham gia vụ án hình sự với tư cách là người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người định giá tài sản hoặc người dịch thuật; cá nhân đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo bản án có hiệu lực, người bị kết án tuy nhiên chưa thực hiện thủ tục xóa án tích theo quy định của pháp luật, cá nhân là người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
-
Một người bào chữa theo quy định của pháp luật có thể tiến hành hoạt động bào chữa cho nhiều người bị buộc tội trong cùng một vụ án hình sự nếu quyền lợi/nghĩa vụ của họ không đối lập với nhau. Đồng thời, nhiều người bào chữa có thể cùng bào chữa cho một người bị buộc tội.
Như vậy, theo điều luật nêu trên thì nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho cùng một người bị buộc tội. Hay nói cách khác, một bị cáo hoàn toàn có quyền thuê nhiều luật sư để cùng bào chữa cho mình trong một vụ án hình sự mà không bị giới hạn về số lượng luật sư bào chữa.
2. Bị cáo có quyền lựa chọn luật sư bào chữa không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 75 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về lựa chọn người bào chữa. Theo đó:
-
Người bào chữa sẽ do người bị buộc tội, người đại diện của người bị buộc tội hoặc người thân thích của người bị buộc tội lựa chọn;
-
Trong khoảng thời gian 12 giờ được tính bắt đầu kể từ khi nhận được đơn yêu cầu người bào chữa của người bị bắt, hoặc người bị tạm giữ thì các cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ đó phải có trách nhiệm và nghĩa vụ chuyển đơn yêu cầu cho người bào chữa, cho người đại diện hoặc cho người thân thích của họ. Trong trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ không nêu chính xác đích danh thông tin của người bào chữa thì các cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ cần phải chuyển đơn yêu cầu cho người đại diện hoặc cho người thân thích của họ để tìm kiếm người bào chữa;
-
Trong khoảng thời gian 24 giờ được tính bắt đầu kể từ khi nhận được đơn yêu cầu người bào chữa của người bị tạm giam, các cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị tạm giam cần phải có trách nhiệm và nghĩa vụ chuyển đơn yêu cầu cho người bào chữa, chọn người đại diện hoặc cho người thân thích của họ. Trong trường hợp người bị tạm giam không nêu chính xác đích danh thông tin cơ bản của người bào chữa, thì các lực lượng chức năng có thẩm quyền đang quản lý người bị tạm giam đó cần phải chuyển đơn yêu cầu cho người đại diện hoặc chuyển đơn cho người thân thích của họ để nhờ người bào chữa theo quy định của pháp luật;
-
Trong trường hợp người đại diện hoặc người thân thích của người bị bắt, của người bị tạm giam, của người bị tạm giữ có đơn yêu cầu nhờ người bào chữa, khi các cơ quan chức năng có thẩm quyền cần phải có trách nhiệm và nghĩa vụ thông báo đơn cho người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam để họ đưa ra ý kiến về việc nhờ người bào chữa;
-
Người bị buộc tội, người đại diện của người bị buộc tội hoặc người thân thích của họ đề nghị cơ quan có thẩm quyền đó là Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương trở lên cử bào chữa viên nhân dân để tiến hành hoạt động bào chữa cho người bị buộc tội (trong trường hợp người bị buộc tội là thành viên của tổ chức).
Như vậy, bị cáo vẫn có quyền lựa chọn luật sư để bào chữa theo quy định của pháp luật.
3. Bị cáo không mời được luật sư bào chữa thì xử lý thế nào?
Căn cứ theo quy định tại Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về vấn đề chỉ định người bào chữa. Theo đó:
-
Trong các trường hợp sau đây, nếu người bị buộc tội, người đại diện của người bị buộc tội hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần phải tiến hành hoạt động chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội. Bao gồm các trường hợp: Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi 2017) quy định mức cao nhất của khung hình phạt là lên đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình; trong trường hợp người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất, tinh thần mà không thể tự bào chữa cho mình; trong trường hợp người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi;
-
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành tố tụng bắt buộc phải yêu cầu các tổ chức sau đây hoặc đề nghị các tổ chức sau của người bào chữa (khi thuộc một trong những trường hợp nêu trên): Đoàn luật sư sẽ phân công tổ chức hành nghề luật sư của người bào chữa; trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước sẽ cử trợ giúp viên pháp lý, cử luật sư bào chữa cho những cá nhân thuộc diện được trợ giúp pháp lý; Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam sẽ cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị buộc tội, trong trường hợp người bị buộc tội là thành viên của tổ chức.
Như vậy, trong trường hợp bị cáo không mời được luật sư bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần phải chỉ định người bào chữa cho bị cáo.
THAM KHẢO THÊM: