Hành vi mua bán tinh trùng là một vấn đề pháp lý nổi bật trong thời đại hiện đại, đặc biệt là khi công nghệ sinh sản ngày càng tiên tiến. Tuy nhiên, pháp luật của nhiều quốc gia vẫn chưa có sự thống nhất về việc mua bán tinh trùng và việc này có vi phạm pháp luật hay không.
Mục lục bài viết
1. Hành vi mua bán tinh trùng có vi phạm pháp luật không?
Căn cứ Điều 154 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về hành vi mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người, có các điều khoản như sau:
-
Theo khoản 1 quy định phạt tù từ 03 năm đến 07 năm đối với người nào mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người khác.
-
Theo khoản 2 quy định phạt tù từ 07 năm đến 15 năm đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Đối với từ 02 người đến 05 người;
+ Phạm tội 02 lần trở lên;
+ Có tổ chức;
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp;
+ Vì mục đích thương mại;
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
-
Theo khoản 3 quy định phạt tù từ 12 năm đến 20 năm đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Có tính chất chuyên nghiệp;
+ Gây chết người;
+ Đối với 06 người trở lên;
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
+ Tái phạm nguy hiểm.
-
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Theo Điều 3 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến lấy xác 2006, các từ ngữ “mô” và “bộ phận cơ thể người” được định nghĩa như sau:
-
Mô là tập hợp các tế bào cùng một loại hay nhiều loại khác nhau để thực hiện các chức năng nhất định của cơ thể người.
-
Bộ phận cơ thể người là một phần của cơ thể được hình thành từ nhiều loại mô khác nhau để thực hiện các chức năng sinh lý nhất định.
Từ định nghĩa này, có thể thấy rằng tinh trùng không phải là mô hay bộ phận cơ thể người. Do đó, hành vi bán tinh trùng không được coi là hành vi vi phạm pháp luật. Hành vi này có thể được thực hiện mà không bị xử lý hình sự.
Như vậy, tinh trùng không được xem là mô hay bộ phận cơ thể người. Hành vi bán tinh trùng không phải là hành vi vi phạm pháp luật. Do đó, có thể bán tinh trùng cho người khác.
2. Bán tinh trùng của mình cho nhiều người bị xử phạt vi phạm hành chính bao nhiêu tiền?
Căn cứ khoản 4 Điều 4
-
Tinh trùng, noãn của người cho chỉ được sử dụng cho một người. Nếu không thành công trong việc sinh con thì mới có thể sử dụng cho người khác.
-
Trường hợp đã thành công trong việc sinh con, tinh trùng, noãn chưa sử dụng hết phải được hủy hoặc hiến tặng cho cơ sở làm nghiên cứu khoa học.
Theo đó, việc bán tinh trùng cho nhiều người được coi là một hành vi vi phạm.
Theo Điểm b khoản 3 Điều 42 Nghị định 117/2020/NĐ-CP quy định về vi phạm quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm như sau:
-
Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
+ Cung cấp tên tuổi, địa chỉ hoặc hình ảnh của người cho tinh trùng, người nhận tinh trùng, nhận phôi.
+ Sử dụng tinh trùng, noãn của một người cho để dùng cho từ hai người trở lên, trừ trường hợp không sinh con thành công.
-
Hình thức xử phạt bổ sung:
+ Đình chỉ hoạt động thụ tinh trong ống nghiệm từ 01 tháng đến 03 tháng đối với cơ sở vi phạm đồng thời từ 03 hành vi trở lên trong các hành vi quy định tại các khoản 1, 2, 3 và các điểm c, d, đ, e, g khoản 4 Điều này;
+ Đình chỉ hoạt động thụ tinh trong ống nghiệm trong thời hạn từ 06 tháng đến 12 tháng đối với hành vi quy định tại điểm b khoản 4 và khoản 5 Điều này.
Căn cứ khoản 5 Điều 4 Nghị định 117/2020/NĐ-CP quy định về mức phạt tiền đối với cá nhân, tổ chức: Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
Tóm lại, tinh trùng của người cho chỉ được sử dụng cho một người, trừ khi không thành công trong việc sinh con. Trường hợp tinh trùng chưa sử dụng hết sau khi đã sinh con thành công phải được hủy hoặc hiến tặng cho cơ sở làm nghiên cứu khoa học. Hành vi bán tinh trùng cho nhiều người sẽ bị phạt vi phạm hành chính từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Ngoài ra, cơ sở có hành vi sử dụng tinh trùng không đúng quy định cũng sẽ phải chịu hình thức xử phạt bổ sung đình chỉ hoạt động thụ tinh trong ống nghiệm từ 01 tháng đến 03 tháng. Lưu ý rằng, đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính, mức phạt tiền đối với tổ chức sẽ gấp đôi mức phạt tiền đối với cá nhân là từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng.
3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền phạt tiền vi phạm hành chính đối với hành vi bán tinh trùng của mình cho nhiều người không?
Căn cứ vào quy định của khoản 2 Điều 103 Nghị định 117/2020/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 7 Điều 147 Nghị định 96/2023/NĐ-CP và điểm b khoản 27 Điều 2 Nghị định 124/2021/NĐ-CP, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi bán tinh trùng cho nhiều người như sau:
-
Đối với vi phạm hành chính về dân số sẽ bị phạt tiền đến 15 triệu đồng; đối với vi phạm hành chính về y tế dự phòng và phòng, chống HIV/AIDS sẽ bị phạt tiền đến 25 triệu đồng; đối với vi phạm hành chính về bảo hiểm y tế sẽ bị phạt tiền đến 37.500.000 đồng; đối với vi phạm hành chính về khám bệnh, chữa bệnh, dược, mỹ phẩm và thiết bị y tế sẽ bị phạt tiền đến 50 triệu đồng;
-
Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;
-
Phạt cảnh cáo;
-
Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn;
-
Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm c, đ, e, h và i khoản 1 Điều 28 của Luật Xử lý vi phạm hành chính và khoản 3 Điều 3 Nghị định 117/2020/NĐ-CP.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có quyền áp dụng mức phạt tiền lên đến 50.000.000 đồng đối với vi phạm hành chính liên quan đến khám bệnh, chữa bệnh, dược, mỹ phẩm và thiết bị y tế. Điều này có nghĩa là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện cũng có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi bán tinh trùng cho nhiều người.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
-
Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017;
-
Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006;
-
Nghị định Quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo;10/2015/NĐ-CP -
Nghị định 10/2015/NĐ-CP Quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo;
-
Nghị định 96/2023/NĐ-CP hướng dẫn Luật Khám bệnh, chữa bệnh;
-
Nghị định 124/2021/NĐ-CP sửa đổi
Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm và Nghị định 117/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.115/2018/NĐ-CP
THAM KHẢO THÊM: