Hậu quả của đại dịch Covid-19 vô cùng nghiêm trọng khiến hoạt động logistics bị ngưng trệ, các chuỗi cung ứng bị đứt gãy phải mất rất nhiều thời gian để khôi phục. Trong khi đó, pháp luật về logistics và các quy định về hợp đồng trong hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics lại đang còn nhiều khiếm khuyết, bất cập và vướng mắc, cần được hoàn thiện các quy định về hoạt động logistics nói chung và hợp đồng trong kinh doanh dịch vụ logistics nói riêng.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát tình hình dịch vụ Logistics tại Việt Nam:
- 2 2. Một số vấn đề chung về hợp đồng kinh doanh dịch vụ logistics:
- 2.1 2.1. Về khái niệm “Hợp đồng kinh doanh dịch vụ logistics:
- 2.2 2.2. Về đặc điểm của hợp đồng dịch vụ logistics:
- 2.3 2.3. Về phân loại hợp đồng dịch vụ logistics:
- 2.4 2.4. Về hình thức ký kết hợp đồng dịch vụ logistics:
- 2.5 2.5. Về các trường hợp bất khả kháng khi xem xét miễn giảm trách nhiệm hợp đồng dịch vụ logistics:
- 2.6 2.6. Vấn đề giới hạn trách nhiệm trong hợp đồng dịch vụ logistics:
- 2.7 2.7. Về chủ thể ký kết:
- 3 3. Kết luận và một số khuyến nghị:
1. Khái quát tình hình dịch vụ Logistics tại Việt Nam:
Dịch vụ Logistics đang phát triển ngày một mạnh mẽ ở nước ta với tốc độ đạt 16 – 20% trong một năm. Trước thời điểm đại dịch Covid-19 diễn ra có khoảng 4000 đến 4500 doanh nghiệp logistics và khoảng 30.000 doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh liên quan đến logistics”. Về quy mô, thị trường dịch vụ logistics Việt Nam đạt ở mức độ trung bình thấp trong tương quan so sánh với thế giới nhưng ở mức khá nếu so sánh trong khu vực Đông Nam Á. Thị phần chủ yếu do các thương nhân nước ngoài nắm giữ. Tỉ trọng đóng góp vào GDP của ngành logistics rất đáng kể và ngày một tăng lên.
Để điều chỉnh hoạt động logistics hiệu quả và phát triển đúng với quy luật của kinh tế thị trường cũng như phù hợp với định hướng chiến lược phát triển kinh tế xã hội, hoạt động lập pháp cũng đã đi trước một bước trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm các nước có nền kinh tế thị trường lâu đời. Đó là việc ban hành
Hơn nữa, cần thấy rằng, cùng với sự ra đời của các bộ luật, đạo luật nói trên, việc ban hành văn bản chuyên biệt dưới luật là Nghị định 163/2017/NĐ-CP quy định về kinh doanh dịch vụ logistics đã tạo lập khung khổ pháp lý tương đối hoàn chỉnh đối với hoạt động thương mại đặc thù như logistics và hợp đồng logistics. Tuy vậy, thực tiễn kinh doanh logistics sôi động và biến chuyển nhanh chóng, các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động logistics và đặc biệt là các quy định về hợp đồng trong kinh doanh logistics cần phải được xem xét sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện thường xuyên, liên tục nhằm tạo ra sự tương thích với thực tiễn đời sống kinh doanh. Thời gian qua đã có một số nghiên cứu về/có liên quan đến pháp luật logistics và hợp đồng trong kinh doanh dịch vụ logistics.
Về cơ bản các nghiên cứu đã làm rõ được những vấn đề lý luận chung về pháp luật logistics như một lĩnh vực chuyên biệt trong pháp
Đặc biệt, vấn đề hợp đồng dịch vụ logistics được xem xét dưới góc độ lý thuyết trong một luận án tiến sĩ cho kết quả tương đối thành công’ song một số nội dung chưa thực sự được nghiên cứu để làm sáng tỏ hơn nữa, nhất là dưới góc độ thực tiễn hoạt động kinh doanh logistics ở Việt Nam, ví dụ, về khái niệm, đặc điểm và hình thức của hợp đồng dịch vụ logistics, về việc xem xét các dạng loại hợp đồng dịch vụ logistics, về chủ thể ký kết, về ảnh hưởng khi quy định điều kiện kinh doanh và giới hạn trách nhiệm đến quá trình giao kết, thực hiện và chấm dứt hợp đồng kinh doanh dịch vụ logistics và việc miễn giảm trách nhiệm hợp đồng dịch vụ logistics trong trường hợp bất khả kháng. Những nội dung này sẽ lần lượt được xem xét và phân tích dưới đây.
2. Một số vấn đề chung về hợp đồng kinh doanh dịch vụ logistics:
2.1. Về khái niệm “Hợp đồng kinh doanh dịch vụ logistics:
Trước hết, hợp đồng trong kinh doanh dịch vụ logistics là một loại hợp đồng kinh doanh dịch vụ. Theo quy định, hợp đồng dịch vụ được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ phải trả tiền công cho bên cung ứng dịch vụ. Từ khái niệm về hợp đồng dịch vụ này và tham khảo ý kiến của các nhà nghiên cứu nước ngoài, có tác giả đưa ra khái niệm về hợp đồng kinh doanh dịch vụ logistics 3. “Hợp đồng dịch vụ logistics là sự thỏa thuận giữa một bên cung cấp dịch vụ và một bên là khách hàng, theo đó bên cung cấp dịch vụ có nghĩa vụ thực hiện tích hợp một hoặc nhiều dịch vụ trong chuỗi cung ứng logistics bao gồm việc nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác liên quan đến hàng hóa, còn bên kia (khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán phí dịch vụ”. Về tổng thể, khái niệm được đưa ra là khá đầy đủ, bao gồm những khía cạnh quan hệ pháp luật có liên quan đến dịch vụ logistics mà các chủ thể là bên cung cấp dịch vụ với bên kia là khách hàng, bên sử dụng dịch vụ cũng như quyền và nghĩa vụ tối giản (Bên cung cấp dịch vụ được quyền nhận tiền và Bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền). Một khái niệm được đưa ra như vậy là có thể tham khảo được.
Tuy nhiên, theo thiển ý của chúng tôi thì cần phải xem xét để xác lập một khái niệm hoàn chỉnh về hợp đồng trong kinh doanh dịch vụ logistics có tính đến nội hàm và đặc điểm của dịch vụ logistics. Dịch vụ logistics là một hoạt động thương mại được hiểu theo nghĩa chung là tập hợp các yếu tố hỗ trợ cho quá trình vận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất tới nơi tiêu thụ. Còn theo nghĩa cụ thể thì dịch vụ logistics gắn liền cả quá trình nhập nguyên, nhiên vật liệu làm đầu vào cho quá trình sản xuất, sản xuất ra hàng hóa và đưa vào các kênh lưu thông, phân phối để đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Đặc điểm cơ bản của dịch vụ logistics là bao gồm rất nhiều hoạt động có tính chất khác biệt nhau nhưng lại có cùng mục đích phục vụ cho kinh doanh sản xuất hàng hóa’. Từ các dịch vụ vận tải hàng hóa đến dịch vụ kho bãi, xếp dỡ, bảo quản, thông quan, kiểm tra, kê khai, kiểm tra chất lượng, tiêu chuẩn…v…v. Do vậy, hợp đồng dịch vụ logistics cần được hiểu một cách khái quát là một nhóm các loại hợp đồng dịch vụ được giao kết và thực hiện bởi các thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics và khách hàng sử dụng các dịch vụ logistics được pháp luật thương mại quy định. Theo chúng tôi, khái niệm về hợp đồng dịch vụ logistics nên được hiểu là sự thỏa thuận có hiệu lực bắt buộc thực hiện giữa các bên là thương nhân tham gia cung ứng một hoặc tất cả các dịch vụ logistics cụ thể được pháp luật thương mại quy định và khách hàng, theo đó các bên có các quyền và nghĩa vụ xác định. Như vậy, hợp đồng dịch vụ logistics là một khái niệm chung chỉ một dạng gồm nhiều nhóm hợp đồng dịch vụ cụ thể, được giới hạn trong danh mục mà pháp luật đã quy định.
- Dịch vụ xếp dỡ container, trừ dịch vụ cung cấp tại các sân bay.
- Dịch vụ kho bãi container thuộc dịch vụ hỗ trợ vận tải biển.
- Dịch vụ kho bãi thuộc dịch vụ hỗ trợ mọi phương thức vận tải.
- Dịch vụ chuyển phát.
- Dịch vụ đại lý vận tải hàng hóa.
- Dịch vụ đại lý làm thủ tục hải quan (bao gồm cả dịch vụ thông quan).
- Dịch vụ khác, bao gồm các hoạt động sau: Kiểm tra vận đơn, dịch vụ môi giới vận tải hàng hóa, kiểm định hàng hóa, dịch vụ lấy mẫu và xác định trọng lượng; dịch vụ nhận và chấp nhận hàng; dịch vụ chuẩn bị chứng từ vận tải.
- Dịch vụ hỗ trợ bán buôn, hỗ trợ bán lẻ bao gồm cả hoạt động quản lý hàng lưu kho, thu gom, tập hợp, phân loại hàng hóa và giao hàng.
- Dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải biển.
- Dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải đường thủy nội địa. 11. Dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải đường sắt.
- Dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải đường bộ. 13. Dịch vụ vận tải hàng không.
- Dịch vụ vận tải đa phương thức.
- Dịch vụ phân tích và kiểm định kỹ thuật.
- Các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác.
- Các dịch vụ khác do thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics và khách hàng thỏa thuận phù hợp với nguyên tắc cơ bản của Luật thương mại.
2.2. Về đặc điểm của hợp đồng dịch vụ logistics:
Hợp đồng dịch vụ logistics có một số đặc điểm chưa được xem xét, đề cập đến hoặc chưa được làm rõ trước đây.
Một là, Hợp đồng dịch vụ logistics rất đa dạng, phong phú và mỗi nhóm hợp đồng trong đó có tính chất khác nhau rất lớn. Điều này là do bị ảnh hưởng bởi tính chất đa dạng, phong phú của dịch vụ logistics.
Thứ hai là, hợp đồng dịch vụ logistics theo tiêu chí của sự thỏa thuận được phân chia thành hai loại là hợp đồng ưng thuận và hợp đồng gia nhập.
Thứ ba là, nội dung hợp đồng dịch vụ logistics có tính chất phức tạp và phải tuân thủ khắt khe các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và điều kiện kinh doanh. Các quy định về điều kiện kinh doanh logistics có ảnh hưởng rất lớn đến việc giao kết, thực hiện và chấm dứt hợp đồng kinh doanh dịch vụ logistics.
Kinh doanh dịch vụ logistics nói chung không phải là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện (Theo Luật Đầu tư 2020) nhưng mỗi loại hình kinh doanh dịch vụ logistics lại phải thỏa mãn các điều kiện kinh doanh được quy định trong pháp luật chuyên ngành. Ví dụ, hợp đồng cung cấp dịch vụ kho vận, hợp đồng cung cấp dịch vụ phân tích và kiểm định kỹ thuật, hợp đồng cung ứng dịch vụ kiểm định hàng hóa…
2.3. Về phân loại hợp đồng dịch vụ logistics:
Việc phân loại hợp đồng dịch vụ logistics tuy không thực sự có ý nghĩa lớn nhưng theo chúng tôi, đây là một việc có ý nghĩa trong thực tiễn vì việc nhận diện chính xác từng loại hợp đồng dịch vụ logistics sẽ tạo thuận lợi cho các bên tham gia hợp đồng trong việc lựa chọn các nội dung đàm phán và ký kết trước một đối tượng là một dịch vụ logistics cụ thể.
Theo hình thức giao kết, hợp đồng dịch vụ logistics có thể phân chia thành hai loại ký kết trực tiếp, hợp đồng truyền thống và hợp đồng ký kết gián tiếp có sự hỗ trợ của bên thứ ba cung cấp phương tiện kỹ thuật và chứng thực chữ ký số, hợp đồng dịch vụ logistics điện tử được sử dụng trong mô hình logistics 5PL”. Khi giao kết, thực hiện và chấm dứt hợp đồng dịch vụ logistics điện tử ngoài việc tuân thủ các quy định pháp luật như hợp đồng truyền thống còn phải tuân thủ các quy định về thương mại điện tử.
Ngoài ra, chúng tôi cho rằng, cách thức phân loại theo từng loại hình dịch vụ logistics được quy định trong NĐ 163/2017/NĐ-CP là cách thức phân loại hợp đồng dịch vụ logistics hữu dụng nhất. Theo đó, mỗi hoạt động dịch trong từng nhóm dịch vụ logistics được liệt kê trong văn bản nói trên sẽ là một loại hợp đồng dịch vụ logistics với những chủ thể, nội dung, hình thức và đối tượng ký kết đặc trưng.
Xác định rõ khái niệm, đặc điểm và phân loại chính xác hợp đồng dịch vụ logistics sẽ tạo cơ sở nền tảng cho việc hoàn thiện các quy định về hợp đồng dịch vụ logistics.
2.4. Về hình thức ký kết hợp đồng dịch vụ logistics:
Hình thức ký kết hợp đồng dịch vụ logistics cũng có một số điểm đáng lưu ý. Quy định hiện tại không bắt buộc hợp đồng dịch vụ logistics thể hiện hình thức bằng văn bản, có nghĩa là hợp đồng dịch vụ logistics được ký kết dưới tất cả các hình thức mà pháp luật quy định nhưng thực tiễn thực hiện các loại hợp đồng dịch vụ logistics đã và đang phát sinh rất nhiều rủi ro khi các bên sử dụng hình thức hợp đồng dịch vụ logistics không bằng văn bản. Bởi vậy, thời gian tới cần xây dựng và ban hành các quy định về hình thức của hợp đồng logistics, trong đó phải bắt buộc bằng văn bản.
2.5. Về các trường hợp bất khả kháng khi xem xét miễn giảm trách nhiệm hợp đồng dịch vụ logistics:
Do đặc điểm của dịch vụ logistics đa dạng, phong phú và vô cùng phức tạp trong đó có liên quan đến vấn đề về các trường hợp bất khả kháng và việc xem xét chúng khi miễn giảm trách nhiệm hợp đồng. Đặc biệt trong thời gian qua, đại dịch Covid-19 xảy ra trên phạm vi toàn cầu có ảnh hưởng rất lớn đến các quan hệ hợp đồng dịch vụ logistics. Vấn đề này vừa qua được một số nhà nghiên cứu cho ý kiến khá xác đáng. Chúng tôi cho rằng, việc xem xét các trường hợp bất khả kháng nói chung và do dịch bệnh nói riêng cần theo nguyên tắc cá biệt hóa, tức là phải xem xét trong từng trường hợp của từng hợp đồng dịch vụ logistics cụ thể mới có thể áp dụng chính xác và hiệu quả.
2.6. Vấn đề giới hạn trách nhiệm trong hợp đồng dịch vụ logistics:
Tương tự như vấn đề xem xét các trường hợp bất khả kháng liên quan đến hợp đồng dịch vụ logistics, vấn đề giới hạn trách nhiệm cũng cần phải được đặt ra vì đây là một trong những nội dung quan trọng nhằm quản trị các rủi ro thường xảy ra trong quan hệ hợp đồng dịch vụ logistics. Kinh doanh dịch vụ logistics thường gặp phải nhiều rủi ro, để bảo vệ quyền lợi của cả bên cung cấp dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ logistics, đồng thời cân bằng nghĩa vụ giữa hai bên, pháp luật đã quy định về giới hạn trách nhiệm trong dịch vụ logistics. Giới hạn trách nhiệm là hạn mức tối đa mà thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho khách hàng đối với những tổn thất phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện dịch vụ logistics theo quy định. Khi giao kết hợp đồng dịch vụ logistics, các bên cần xem xét hết sức cẩn trọng vấn đề giới hạn trách nhiệm để có những thỏa thuận chi tiết, cụ thể và khả thi để phòng tránh, ngăn ngừa và khắc phục các rủi ro.
2.7. Về chủ thể ký kết:
Ngoài thương nhân Việt Nam còn có các thương nhân nước ngoài tham gia vào quan hệ hợp đồng dịch vụ logistics với một số hạn chế nhất định*. Chúng tôi cho rằng đây là một vấn đề khá đặc biệt trong hoạt động dịch vụ logistics cũng như trong quan hệ hợp đồng logistics nên cần phải được nghiên cứu xem xét kỹ lưỡng trong một chuyên đề riêng khi có điều kiện.
=> Một số đánh giá, nhận xét:
Qua phân tích một số nội dung mang tính lý luận chung về hợp đồng dịch vụ logistics, có một số nhận xét và đánh giá như sau:
Thứ nhất, quan niệm về hợp đồng dịch vụ logistics cần được nghiên cứu xem xét và hoàn chỉnh cho phù hợp với thực tiễn của đời sống kinh doanh đang diễn ra rất sôi động và thay đổi nhanh chóng. Trên cơ sở đó có những quy định phù hợp và hiệu quả liên quan đến khái niệm hợp đồng dịch vụ logistics, xác lập những quy định nền tảng cho hệ thống các quy định về hợp đồng dịch vụ logistics trong pháp luật thương mại nói chung và trong pháp luật
Thứ hai, hợp đồng dịch vụ logistics có một số đặc thù cơ bản. Trong đó, tuy cùng nhóm dịch vụ logistics nhưng mỗi hợp đồng trong nhóm lại có sự khác nhau rất lớn do tính chất của mỗi loại dịch vụ logistics và các bên phải tuân thủ chặt chẽ các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cũng như điều kiện kinh doanh khi giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ logistics. Điều này cần phải được lưu ý bổ sung các quy định nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng dịch vụ logistics.
Thứ ba, Về phân loại hợp đồng dịch vụ logistics cần chú ý tiêu chí cách thức giao kết trực tiếp và gián tiếp vì có liên quan đến các vấn đề về hợp đồng điện tử trong kinh doanh dịch vụ e-logistics đang ngày một phát triển trên thế giới và ở Việt Nam. Ngoài ra cần coi trọng tính hữu dụng của cách thức phân loại hợp đồng dịch vụ logistics theo từng loại dịch vụ logistcs là đối tượng của hợp đồng đó.
Thứ tư, Về chủ thể ký kết là cá nhân, pháp nhân nước ngoài với một số hạn chế, một số điều kiện khi tham gia kinh doanh dịch vụ logistics cần quy định lộ trình thay đổi hoặc gỡ bỏ các quy định đó theo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ năm, về hình thức ký kết hợp đồng dịch vụ logistics cần tính đến vấn đề quản trị rủi ro phát sinh từ các quan hệ hợp đồng dịch vụ logistics đang diễn ra trong thực tiễn kinh doanh dịch vụ logistics ở nước ta hiện nay để có các quy định phù hợp.
Thứ sáu, các trường hợp bất khả kháng khi xem xét miễn giảm trách nhiệm hợp đồng dịch vụ logistics là vấn đề khá phức tạp và đặc thù. Hiện nay, các quy định pháp luật về hợp đồng dịch vụ logistics còn thiếu và chưa rõ ràng cần được quan tâm bổ sung.
Thứ bảy, Vấn đề giới hạn trách nhiệm trong hợp đồng dịch vụ logistics. Quy định về giới hạn trách nhiệm trong hợp đồng dịch vụ logistics của pháp luật Việt Nam còn khá ít, sơ sài và thiếu tính thực tiễn khiến việc áp dụng trong giao kết, thực hiện và chấm dứt hợp đồng dịch vụ logistics gặp nhiều khó khăn, vướng mắc cần được khắc phục.
3. Kết luận và một số khuyến nghị:
Từ một số nhận xét và đánh giá trên đây, chúng tôi mạnh dạn nêu ra một số khuyến nghị mang tính kết luận sau đây:
Một là, sửa đổi, bổ sung quy định trong văn bản dưới luật về khái niệm hợp đồng dịch vụ logistics với đầy đủ căn cứ khoa học và thực tiễn để làm cơ sở cho các quy định pháp luật về logistics nói chung và về hợp đồng dịch vụ logistics nói riêng. Khái niệm hợp đồng dịch vụ logistics theo ý kiến của nhóm chúng tôi nêu ra ở trên có thể tham khảo được.
Hai là, xem xét các đặc điểm riêng biệt của hợp đồng dịch vụ logistics để từ đó bổ sung, sửa đổi các quy định hướng dẫn các thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics một cách hiệu quả nhất, tạo lập môi trường kinh doanh ngày một thông thoáng và bền vững.
Ba là, bổ sung và hoàn thiện các quy định về hợp đồng dịch vụ logistics điện tử không chỉ trong hệ thống các quy định về logistics, logistics điện tử mà còn trong các quy định về thương mại điện tử nói chung.
Bốn là, quy định về lộ trình dỡ bỏ các hạn chế và điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics đối với thương nhân nước ngoài một cách phù hợp, có tính toán nhằm không chỉ thu hút vốn đầu tư nước ngoài mà còn tạo động lực về lợi ích cho thương nhân nước ngoài gắn bó và kinh doanh bền vững ở Việt Nam.
Năm là, cần quy định rõ ràng về hình thức ký kết hợp đồng dịch vụ logistics dưới dạng văn bản, có tính đến đặc thù của từng nhóm hợp đồng dịch vụ logistics. Việc ban hành mẫu chuẩn hợp đồng dịch vụ logistics theo điều kiện thương mại chung cũng cần được có những quy định cụ thể và rõ ràng hơn trong thời gian tới.
Sáu là, quy định mang tính hướng dẫn chi tiết về các trường hợp bất khả kháng có liên quan đến hợp đồng dịch vụ logistics để tạo lập cơ sở cho việc giải quyết các vấn đề rủi ro phát sinh từ hợp đồng dịch vụ logistics.
Và bảy là, quy định về giới hạn trách nhiệm trong kinh doanh dịch vụ logistics đối với các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng dịch vụ logistics là hết sức cần thiết mang tính cấp bách khi quy định chung về giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không thể áp dụng cho mỗi trường hợp cụ thể.