Tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn của từ ba cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm là chủ thể trong các quan hệ dân sự
1.Căn cứ pháp lý:
+ Nghị định 151/2007/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của tổ hợp tác
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 110 “Bộ luật dân sự 2015”:
“Tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở
hợp đồng hợp tác có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn của từ ba cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm là chủ thể trong các quan hệ dân sự”.
Điều 1 Nghị định 151/2007 quy định:
“Nghị định này quy định về tổ chức và hoạt động của tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) của từ ba cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm”.
Bộ luật dân sự và Nghị định 151/2007/NĐ-CP đều không đưa ra khái niệm tổ hợp tác mà chỉ đưa ra các tiêu chí, điều kiện để trở thành tổ hợp tác: Khi 3 cá nhân trở lên cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi, cùng chịu trách nhiệm và việc hợp tác được xây dựng trên cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng thực của UBND cấp, xã phường thị trấn.
Cách xác định tư cách chủ thể tổ hợp tác phải là chủ thể có đăng ký chứng thực hợp đồng hợp tác tại UBND cấp xã/phường.
Tổ hợp tác có đủ điều kiện trở thành pháp nhân theo quy định của pháp luật thì đăng ký hoạt động với tư cách pháp nhân tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2.Mục đích tham gia tổ hợp tác của tổ viên và mục đích xây dựng tổ hợp tác thành chủ thể của quan hệ dân sự
Tổ hợp tác là hình thức hợp tác đơn giản, có khả năng áp dụng rộng rãi, liên kết những người dân có hoạt động sản xuất nhỏ lẻ, vốn ít, dễ bị thiệt thòi khi tham gia thị trường, cùng thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm nâng cao năng lực sản xuất và mua bán hàng hóa nông sản, tăng khả năng tiếp cận thị trường, góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp nông thôn. Do đó, các tổ viên tham gia tổ hợp tác hiện nay mới chỉ dừng lại trong việc tìm một “tổ chức” có tư cách pháp lý để hội, họp trao đổi kinh nghiệm sản xuất, giúp đỡ nhau trong quá trình sản xuất, kinh doanh giữa các tổ viên. Trong khi đó chính sách phát triển kinh tế tập thể của Đảng, Nhà nước được nhà lập pháp đã thể chế hóa Tổ hợp tác thành một chủ thể trong giao dịch dân sự – liên kết đơn giản nhằm tạo tiền tề, điều kiện cho việc phát triển, mở rộng và “nâng” tổ hợp tác thành các chủ thể có tổ chức cao hơn như Hợp tác xã, Doanh nghiệp.
3. Tổ viên tổ hợp tác
Theo quy định Điều 110 “Bộ luật dân sự 2015” tổ viên của tổ hợp tác là:
“Những người cùng góp công sức trong việc tham gia sản xuất, kinh doanh, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm”.
Khoản 1 Điều 7 Nghị định 151/2007 về điều kiện kết nạp tổ viên như sau:
“a) Cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, tự nguyện tham gia và tán thành các nội dung của hợp đồng hợp tác đều có thể trở thành tổ viên tổ hợp tác. Một cá nhân có thể là thành viên của nhiều tổ hợp tác;
b) Hợp đồng hợp tác có thể quy định thêm về các tiêu chuẩn khác đối với tổ viên tổ hợp tác.”
Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành mới chỉ dừng lại quy định việc bầu, thay đổi tổ trưởng phải
Tổ viên tổ hợp tác có các quyền quy định tại Điều 116 “Bộ luật dân sự năm 2015” và Điều 8 Nghị định 151/2007/NĐ-CP, đồng thời có các nghĩa vụ tại Điều 115 “Bộ luật dân sự năm 2015” và Điều 9 Nghị định 151/2007/NĐ-CP.
4.Về vấn đề tài sản:
Theo quy định Điều 114 Bộ luật dân sự về tài sản của Tổ hợp tác:
“1. Tài sản do các tổ viên đóng góp, cùng tạo lập và được tặng cho chung là tổ hợp tác.
2. Các tổ viên quản lý và sử dụng tài sản của tổ hợp tác theo phương thức thoả thuận.
3. Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất của tổ hợp tác phải được toàn thể tổ viên đồng ý; đối với các loại tài sản khác phải được đa số tổ viên đồng ý. “
Điều 19 Nghị định 151/2007 quy định:
“1. Tài sản của tổ hợp tác hình thành từ các nguồn:
a) Tài sản đóng góp của tổ viên tổ hợp tác bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản;
b) Phần được trích từ hoa lợi, lợi tức sau thuế để tăng vốn;
c) Các tài sản cùng tạo lập và được tặng, cho chung;
d) Tài sản khác theo quy định của pháp luật.
Tổ hợp tác cần ghi chép theo dõi riêng những tài sản bằng hiện vật không quy thành giá trị, trong đó phân rõ thành 2 loại: loại tài sản do từng tổ viên góp và sẽ trả lại khi tổ viên đó ra khỏi tổ hợp tác và loại tài sản không chia cho các tổ viên khi tổ viên ra khỏi tổ hợp tác.
2. Việc quản lý và sử dụng tài sản của tổ hợp tác được thực hiện theo phương thức thoả thuận. Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất của tổ hợp tác phải được toàn thể tổ viên đồng ý; đối với các loại tài sản khác phải được đa số tổ viên đồng ý.
3. Tài sản của tổ hợp tác được kiểm kê, đánh giá định kỳ và ghi vào biên bản kiểm kê hoặc sổ sách ghi chép của tổ theo thỏa thuận”.
Pháp luật quy định các nguồn hình thành tài sản của Tổ hợp tác, chế độ quản lý, sử dụng tài sản của Tổ hợp tác. Tài sản của tổ hợp tác được hình thành từ nguồn đóng góp của tổ viên, phần trích lại từ hoa lợi, lợi tức sau thuế để tăng vốn, từ tài sản được tặng, cho. Việc quản lý và sử dụng tài sản của tổ hợp tác được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Công tác tài chính của tổ hợp tác phải đảm bảo tính công khai, minh bạch để tổ viên biết, theo dõi và kiểm tra.
Tuy nhiên, do pháp luật không “pháp định” về vốn góp của tổ hợp tác mà chỉ là số vốn tự kê khai, thông báo trong hợp đồng hợp tác chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã/phường nên việc xác định tài sản của tổ hợp tác có nhiều cách xác định khác nhau. Theo đó, “việc khai” tài sản đóng góp vào Tổ hợp tác chỉ là khai cho có mà không có tài sản chung đóng góp thực. Thực tiễn cho thấy tổ hợp tác gần như không có riêng, tài sản, tư liệu sản xuất vẫn thuộc sở hữu, quản lý của các tổ viên theo nguyên tắc của ai thì người đó sở hữu, quản lý, sử dụng. Tài sản của Tổ hợp tác rất ít, chỉ là “quỹ” để các Tổ hợp tác sinh hoạt hoặc cho 1 số tổ viên vay hoặc số vốn là của riêng một tổ viên đưa ra để kinh doanh. Chính lý do này thực tế đã làm cho tổ hợp tác gặp khó khăn trong việc xác lập các giao dịch dân sự, cũng như thừa nhận tư cách chủ thể của Tổ hợp tác. Điều này cũng thể hiện thông qua khó khăn của Tổ hợp tác tiếp cận việc vay vốn do không có tài sản để thế cho khoản vay khi nhân danh tổ hợp tác vay vốn.
5. Quyền của tổ hợp tác
Căn cứ Điều 12 Nghị định 151/2007/NĐ-CP Tổ hợp tác có các quyền sau:
+ Được lựa chọn ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm.
+ Trực tiếp xuất khẩu, nhập khẩu hoặc liên doanh, liên kết.
+ Được hưởng các chính sách hỗ trợ và tham gia xây dựng, thực hiện kế hoạch, chương trình, dự án hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể.
+ Được mở tài khoản riêng tại ngân hàng theo quy định của pháp luật và theo cơ chế người đại diện ghi trong hợp đồng hợp tác.
+ Được ký kết các hợp đồng dân sự.
+ Được quyết định phân phối hoa lợi, lợi tức và xử lý các khoản lỗ của Tổ hợp tác.
+ Các quyền khác được ghi trong hợp đồng hợp tác nhưng không trái quy định của pháp luật
6. Vấn đề xác lập giao dịch và đại diện trong giao dịch
“Bộ luật dân sự 2015” tiếp tục thừa nhận Tổ hợp tác là một chủ thể trong các quan hệ dân sự và không có tư cách pháp nhân. Điều này thể hiện trong cơ chế chịu trách nhiệm về tài sản được quy định tại khoản 2, Điều 117, khoản 3, Điều 120 “Bộ luật dân sự 2015”:
“Tổ hợp tác chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản của tổ; nếu tài sản không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của tổ thì tổ viên phải chịu trách nhiệm liên đới theo phần tương ứng với phần đóng góp bằng tài sản riêng của mình”.
Tuy nhiên, “Bộ luật dân sự 2015” cũng quy định trong những điều kiện nhất định tổ hợp tác có thể chuyển đổi thành các hình thức thích hợp có tư cách pháp nhân (hợp tác xã, doanh nghiệp). Điều 12, Nghị định 151/2007/NĐ-CP quy định các quyền của tổ hợp tác có phạm vi rất rộng tạo điều kiện thuận lợi để tổ hợp tác tham gia vào các quan hệ dân sự.Theo quy định tại Điều 113 Bộ luật dân sự thì tổ trưởng do các thành viên bầu ra sẽ là người đại diện cho tổ hợp tác xác lập các giao dịch. Giao dịch do tổ trưởng xác lập sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ của tổ hợp tác nói chung, các tổ viên nói riêng.