Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo theo quy định. Chứng minh hợp đồng giả tạo. Lấy ví dụ về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với bên thứ ba.
Hiện nay, về vấn đề kinh tế xã hội ngày càng phát triển , đi cùng đó là những mặt trái của xã hội . Điển hình như nhu cầu vay vốn hay như nhu cầu về tiêu dùng tăng lên, đồng thời với đó là các cá nhân, tổ chức thấy được “nguồn lợi” trong việc cho vay tín chấp nên các hoạt động này mọc lên như nấm nhằm đáp ứng nhu cầu của người đi vay. Ngoại trừ ngân hàng thì hầu như các cá nhân, tổ chức đều cho vay với mức lãi suất rất cao, được tính theo ngày hoặc theo tháng.
Thường trong các giao dịch cho vay, người đi vay được đặt trong tình thế cần gấp một khoản tiền để thực hiện hoặc hoàn nghĩa vụ cần gấp. Việc đi vay ngoài với lãi suất cao kèm theo đó là việc không hiểu biết pháp luật, như việc giao kết hợp đồng vay khiến nhiều người lúng túng, kèm theo đó là nhiều rủi ro mà người vay gặp phải. Phía bên cho vay không chỉ đưa ra hợp đồng vay tiền mà còn kèm theo là hợp đồng chuyển nhượng tài sản với lý do đưa ra ‘nhằm bảo đảm để thực hiện hợp vay “.
Đây là một ví dụ điển hình cụ thể về việc khi bên vay không thực hiện nghĩa vụ trả tiền hoặc trả không đúng hạn thì bên cho vay sẽ yêu cầu phía bên vay thực hiện chuyển. Như vậy, trường hợp đặt ra ở đây tồn tại hai Hợp đồng là Hợp đồng cho vay và hợp đồng chuyển nhượng. Đương nhiên phía bên vay sẽ chịu những hậu quả thiệt hại rất lớn từ việc giao kết hai hợp đồng trên. Luật Dương Gia căn cứ vào các quy định pháp lý để làm rõ vấn đề trên như sau:
1. Căn cứ pháp lý
-Luật dân sự 2015
2. Giải thích từ ngữ
a, Giao dịch dân sự: là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự( được quy định tại điều 116
b, Giao dịch dân sự vô hiệu: Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác. Cụ thể về điều 117
Thứ nhất: Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
Thứ hai: Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
Thứ ba: Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Thứ tư: Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.
Thứ năm: Các trường hợp khác do Bộ luật này quy định.
c, Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo:
Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo là khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.
Đồng thời trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.
3. Chứng minh hợp đồng do giả tạo
Để chứng minh hợp đồng do giả tạo Luật Dương Gia lấy một ví dụ cho trường hợp này là: Hợp đồng cho vay bị vô hiệu do giả tạo.
Theo đó, Hợp đồng vay được quy định tại điều 463 Bộ luật dân sự 2015
“Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.”
Chủ thể cho vay ở đây có thể là cá nhân hoặc là tổ chức. Giao dịch dân sự này có thể thỏa thuận với nhau bằng lời nói hoặc lập hợp đồng cho vay. Lãi suất vay do hai bên tự thoả thuận với nhau, và hai bên thỏa thuận về lãi suất phù hợp với trần lãi suất quy định tức là không vượt quá 20% trên một năm của khoản tiền vay ( Bộ luật dân sự 2015), thì tiền lãi được xác định theo thỏa thuận, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Như vậy trường hợp này mới được coi là đúng quy định của pháp luật.
Khi vay tiền thì người cho vay yêu cầu người vay kí tiếp thêm
Như vậy khi hai bên là người vay và người cho vay công chứng hợp đồng chuyển nhượng tài sản thì sẽ có hiệu lực pháp luật. Để đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định Bộ Luật dân sự 2015 điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
Thứ nhất, chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
Thứ hai, chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
Thứ ba, mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Chúng ta có thể thấy rõ, việc giao dịch
Theo quy định tại điều 124 bộ luật dân sự 2015 thì có quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo. Tức là khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan. Mặt khác, nếu thuộc trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.
Hai hợp đồng này có sự khác nhau giữa ý chí và bày tỏ ý chí, không nhất được với nhau. Hợp đồng mua bán được hai bên xác lập ở đây là bản chất là hai bên mong muốn thực hiện giao dịch cho vay . Nhưng mặt khác, hai bên biểu lộ ý chí ra bên ngoài bằng hợp đồng mua bán tài sản. Như vậy có sự không thống nhất ý chí của bên bán với bản chất ban đầu là mục đích vay tiền, và việc bảy tỏ ý chí ở đây lại là ký kết hợp đồng chuyển nhượng tài sản. Đồng thời đối với bên cho vay tiền, tại thời điểm ký kết giữa việc muốn mua tài sản và cho vay là không rõ ràng.
Trong giao dịch dân sự phải là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí. Nếu thiếu sự thống nhất này, giao dịch dân sự có thể bị tuyên bố là vô hiệu hoặc sẽ vô hiệu. Điều này không chỉ đúng với cá nhân mà còn đúng với pháp nhân, hộ gia đình,… Vì khi xác lập giao dịch dân sự các chủ thể có thể là ý chí của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác trong phạm vi về quyền đại diện.
Việc các bên xác lập một giao dịch để nhằm che dấu một giao dịch khác hoặc thực hiện giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa vụ với bên thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu. Khi đó với giao dịch nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch bị giả tạo sẽ vô hiệu còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực nếu như giao dịch bị che giấu đó vẫn tuân thủ đúng các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Trường hợp giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch giả tạo đương nhiên bị vô hiệu
Giao dịch bị che giấu ở đây là: giao dịch giao dịch vay tài sản vì hai bên ban đầu đều là mục đích thực hiện việc vay và cho vay tài sản. Tuy nhiên, các bên lại ký tiếp hợp đồng chuyển nhượng tài sản để mục đích đảm bảo cho việc bên vay thực hiện hợp đồng. Nếu trong trường hợp bên vay không còn khả năng trả nợ thì hợp đồng mua bán sẽ thay thế hợp đồng vay.
Tức là trong trường hợp này bên vay sẽ thực hiện hợp đồng mua bán thay vì thực hiện hợp đồng vay. Như vậy, tại thời điểm ký kết hợp đồng chuyển nhượng các bên đã có ý định che giấu hợp đồng vay, trường hợp này được xem là giao dịch giả tạo liên quan đến hợp đồng.
Khi thực hiện hợp đồng mà có xảy ra tranh chấp, thì cơ sở giải quyết rất khó khăn. Bởi vì việc xác lập thực hiện tiếp thêm hợp đồng chuyển nhượng ở đây hầu như hai bên chỉ thỏa thuận bằng miệng. Nên khi ra tòa, sẽ rất khó để điều tra và xác minh vụ việc xem các bên có đồng thuận hay không, hay có sự ‘ép buộc” để thực hiện hợp đồng chuyển nhượng. Trong các phiên tòa, cũng đã có rất nhiều quyết định tuyên giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo, bên vay và bên cho vay cần tránh thực hiện hợp đồng kiểu này để tránh rắc rối không mong muốn xảy ra.
4. Ví dụ về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với bên thứ ba
Ví dụ: A vay nợ của B số tiền là 500 triệu đồng, A kí giấy vay nợ đồng ý bán căn nhà cho B để trả nợ. Việc mua bán này chưa được thực hiện thì A lại bán căn nhà trên cho C( hợp đồng mau bán đã qua công chứng). Trong tình huống A sau khi bán nhà xong, A không chịu trả tiền nợ cho B thì hợp đồng mua bán giữa A và C sẽ bị coi là vô hiệu do giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba.
Luật sư
Về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu: Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập; các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền… Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.