Logistics chưa bao giờ là một khía cạnh nhỏ trong hoạt động kinh doanh, vai trò của logistics vô cùng quan trọng, đó là hoạt động không thể thiếu trong quá trình thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế cả nước và sự tăng trưởng của các doanh nghiệp. Vậy pháp luật quy định như thế nào về quyền cầm giữ và định đoạt hàng hóa trong lĩnh vực dịch vụ logistics?
Mục lục bài viết
1. Quyền cầm giữ, định đoạt hàng hoá trong dịch vụ logistics:
Trước hết, căn cứ theo quy định tại Điều 233 của Văn bản hợp nhất
Pháp luật hiện nay đã quy định cụ thể về quyền cầm giữ và định đoạt hàng hóa trong dịch vụ logistics. Theo đó, căn cứ theo quy định tại Điều 239 của Văn bản hợp nhất
– Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics theo quy định của pháp luật sẽ có quyền cầm giữ một số lượng hàng hóa nhất định, cầm giữa các loại giấy tờ và chứng từ có liên quan đến số lượng hàng hóa đó để thực hiện thủ tục đòi nợ khi đến hạn của khách hàng, tuy nhiên cần phải thực hiện hoạt động thông báo bằng văn bản cho các khách hàng khi đòi nợ;
– Sau khoảng thời gian 45 ngày được tính kể từ ngày thông báo cầm giữ hàng hóa hoặc cầm giữ các loại chứng từ giấy tờ có liên quan đến hàng hóa, nếu khách hàng vẫn không hoàn trả số tiền mà khách hàng đã nợ, thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics sẽ có quyền định đoạt hàng hóa hoặc định đoạt các loại giấy tờ chứng từ đó theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp nhận thấy hàng hóa có dấu hiệu bị hư hỏng, thì các thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics sẽ có quyền định đoạt hàng hóa ngay khi có bất kỳ khoản nợ đến hạn nào của khách hàng;
– Trước khi thực hiện hoạt động định đoạt hàng hóa, các thương nhân kinh doanh dịch vụ cần phải thông báo cho khách hàng biết về vấn đề định đoạt hàng hóa đó;
– Mọi chi phí cầm giữ và định đoạt hàng hóa sẽ do khách hàng chi trả;
– Thương nhân kinh doanh dịch vụ sẽ có quyền sử dụng số tiền thu được từ hoạt động định đoạt hàng hóa để thanh toán cho các khoản nợ mà khách hàng đã nợ của mình và các chi phí khác có liên quan. Nếu số tiền thu được từ hoạt động định đoạt hàng hóa vượt quá giá trị của các khoản nợ của khách hàng, thì số tiền vượt quá đó sẽ được thương nhân kinh doanh dịch vụ hoàn trả lại cho khách hàng. Kể từ thời điểm đó thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics sẽ không cần phải chịu trách nhiệm đối với hàng hóa và các loại giấy tờ chứng từ đã được định đoạt.
Theo điều luật phân tích nêu trên thì có thể thấy, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics sẽ có quyền cầm giữ đối với một số lượng hàng hóa nhất định hoặc các loại chứng từ giấy tờ liên quan đến số lượng hàng hóa đó để thực hiện hoạt động đòi nợ khi đến hạn trả nợ của khách hàng.
2. Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics khi cầm giữ hàng hóa có nghĩa vụ gì?
Bên cạnh quyền cầm giữ và định đoạt hàng hóa trong dịch vụ logistics như đã phân tích nêu trên, pháp luật còn ghi nhận về nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics trong quá trình cầm giữ hàng hóa. Căn cứ theo quy định tại Điều 240 của Văn bản hợp nhất Luật thương mại năm 2019, khi chưa thực hiện quyền định đoạt hàng hóa căn cứ theo quy định tại Điều 239 của Văn bản hợp nhất Luật thương mại năm 2019 theo như phân tích nêu trên, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics thực hiện quyền cầm giữ hàng hóa sẽ có các nghĩa vụ cơ bản như sau:
– Bảo quản hàng hóa, giữ gìn hàng hóa;
– Không sử dụng hàng hóa nếu chưa được bên có hàng hóa bị cầm giữ đồng ý;
– Trả lại hàng hóa khi các điều kiện cầm giữ và định đoạt hàng hóa căn cứ theo quy định tại Điều 239 của Văn bản hợp nhất luật thương mại năm 2019 không còn tồn tại;
– Bồi thường thiệt hại cho bên có hàng hóa bị cầm giữ nếu để xảy ra mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa cầm giữ.
3. Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics:
Căn cứ theo quy định tại Điều 237 của Văn bản hợp nhất Luật thương mại năm 2019 có quy định cụ thể về các trường hợp miễn trách nhiệm đối với các thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics. Theo đó, ngoài các trường hợp miễn trách nhiệm căn cứ theo quy định tại Điều 294 của Văn bản hợp nhất Luật thương mại năm 2019 thì thương nhân kinh doanh dịch vụ này sẽ không phải chịu trách nhiệm về những tổn thất đối với hàng hóa phát sinh thuộc một trong những trường hợp sau:
– Tổn thất đối với hàng hóa xảy ra do lỗi của bên khách hàng hoặc do lỗi của người được khách hàng ủy quyền;
– Tổn thất của hàng hóa phát sinh do thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics làm theo đúng những chỉ dẫn của khách hàng hoặc theo chỉ dẫn của người được khách hàng ủy quyền;
– Tổn thất hàng hóa xảy ra do các khuyết tật vốn có của hàng hóa;
– Tổn thất của hàng hóa phát sinh trong những trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật và tập quán vận tải nếu các thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics tổ chức vận tải;
– Thương nhân kinh doanh dịch vụ không nhận được các thông báo về việc thiếu lại trong khoảng thời gian 14 ngày được tính kể từ nay thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics giao hàng cho bên nhận;
– Sau khi bị khiếu nại tại cơ quan có thẩm quyền, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không nhận được thông báo về việc mình bị kiện tại trọng tài hoặc bị kiện tại tòa án trong khoảng thời gian 09 tháng được tính kể từ ngày giao hàng.
Đồng thời, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics cũng không cần phải chịu trách nhiệm về việc mất các khoản lợi đáng lẽ được hưởng của khách hàng, về sự chậm trễ hoặc thực hiện dịch vụ logistics sai địa điểm khi không xuất phát từ lỗi của mình.
Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại Điều 238 của Văn bản hợp nhất luật thương mại năm 2019 có quy định về giới hạn trách nhiệm của các thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics. Theo đó, giới hạn trách nhiệm được quy định như sau:
– Ngoại trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, toàn bộ trách nhiệm của các thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics sẽ không được phép vượt quá giới hạn đối với tổn thất của toàn bộ hàng hóa;
– Chính phủ là cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định chi tiết về giới hạn trách nhiệm đối với các thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics sao cho phù hợp với các quy định của pháp luật và phù hợp với tập quán quốc tế;
– Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics sẽ không được hưởng quyền giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu người có quyền lợi liên quan chứng minh về việc sự mất mát/hư hỏng hàng hóa hoặc hành vi giao trả hàng hóa hoàn toàn do thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics cố tình hành động hoặc thương nhân kinh doanh dịch vụ cố tình không hành động để gây ra mất mát/hư hỏng/chậm trễ đó, hoặc thương nhân kinh doanh dịch vụ đã hành động hoặc không hành động một cách mạo hiểm và thương nhân đó cũng biết rằng sự mất mát hư hỏng đó chắc chắn sẽ xảy ra.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Văn bản hợp nhất 17/VBHN-VPQH 2019 Luật Thương mại.
THAM KHẢO THÊM: