Động cơ là yếu tố thúc đẩy, đóng vai trò là đích cuối cùng của hoạt động, giúp duy trì các hoạt động của mình trong suốt một khoảng thời gian nhất định. Vậy động cơ phạm tội là gì? Cho ví dụ về động cơ phạm tội?
Mục lục bài viết
1. Động cơ phạm tội là gì?
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự hiện hành, do chính người mà có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến độc lập, chủ quyền, thống nhất, đến toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của những công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo những quy định của Bộ luật hình sự hiện hành phải bị xử lý hình sự.
Động cơ là yếu tố thúc đẩy, đóng vai trò là đích cuối cùng của hoạt động, giúp duy trì các hoạt động của mình trong suốt một khoảng thời gian nhất định. Động cơ sẽ được hình thành trên cơ sở nhu cầu của con người, khi mà nhu cầu của con người đã được nhận thức đầy đủ và có khả năng thực hiện ở trên thực tế thì nó trở thành động cơ. Động cơ là tiền đề, điều kiện đầy đủ nhất của một hành động đóng một vai trò thúc đẩy duy trì hoạt động và là mục đích cuối cùng của các hoạt động. Không có động cơ thì hoạt động của con người sẽ không diễn ra. Cần phải phân biệt giữa động cơ phạm tội và động cơ của xử sự. Hành vi của con người ở trong trạng thái tâm lí bình thường đều được thực hiện do sự thúc đẩy của một hoặc là một số động cơ nhất định. Không những trong trường hợp phạm tội cố ý mà ngay cả trong những trường hợp phạm tội vô ý, hành vi của người phạm tội cũng đều là do động cơ nhất định thúc đẩy. Chỉ trong một số các trường hợp phạm tội vô ý vì cẩu thả, hành vi mới không có động cơ rõ rệt. Tuy nhiên, ở những tội phạm vô ý chỉ có thể nói đến động cơ của xử sự mà không thể nói đến các động cơ phạm tội vì người phạm tội với lỗi vô ý hoàn toàn không mong muốn thực hiện về tội phạm, họ hoặc không biết hành vi của mình chính là hành vi phạm tội hoặc là tin hành vi của mình không trở thành hành vi phạm tội. Động cơ phạm tội ở trong hầu hết các trường hợp đều không có ý nghĩa về việc quyết định đến tính chất nguy hiểm của tội phạm, không thể làm thay đổi hẳn về tính chất của hành vi phạm tội. Do vậy, động cơ phạm tội ở trong hầu hết trường hợp không phải là căn cứ nhằm để phân biệt giữa tội phạm với không phải là tội phạm, giữa tội phạm này với tội phạm khác. Trong những trường hợp như vậy thì động cơ phạm tội không được mô tả trong cấu thành tội phạm cơ bản. Tuy nhiên thì khi động cơ phạm tội có tính đặc trưng cho tội phạm nhất định và là một dấu hiệu phân biệt tội này với những tội khác hoặc với trường hợp không phải là tội phạm thì nó sẽ phải được mô tả trong cấu thành tội phạm (cơ bản) của tội này như là động cơ phòng vệ, động cơ bắt giữ người phạm tội ở tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc là do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 126 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017); động cơ vụ lợi ở tội sử dụng ưái phép tài sản.
Động cơ phạm tội còn có thể được phản ánh trong những cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng hoặc là giảm nhẹ. Ngoài ra, động cơ phạm tội sẽ còn có thể được xem là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi mà quyết định hình phạt. Trong những tình tiết giảm nhẹ hoặc là tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định ỏ tại các Điều 51 và 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung vào năm 2017 có nhiều tình tiết thuộc động cơ phạm tội.
Qua các phân tích trên thì có thể hiểu động cơ phạm tội chính là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý. Động cơ phạm tội thường sẽ liên quan chặt chẽ tới mục đích phạm tội. Đi cùng với động cơ phạm tội thì mục đích phạm tội chính là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện các hành vi phạm tội cố ý trực tiếp. Trong trường hợp cố ý phạm tội thì bao giờ hành vi của người phạm tội cũng sẽ được thúc đẩy bởi động cơ phạm tội, chỉ những trường hợp phạm tội do vô ý, cẩu thả hay là quá tự tin mới không có động cơ phạm tội thúc đẩy.
Động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu có ý nghĩa định tội trong mọi cấu thành tội phạm. Tuy nhiên thì một số tội phạm trong Bộ luật Hình sự hiện hành quy định động cơ phạm tội là dấu hiệu định tội thì người phạm tội bắt buộc phải có động cơ đó.
2. Ví dụ về động cơ phạm tội:
Một số các ví dụ về động cơ phạm tội như sau:
– Động cơ giết người của Tội giết người có thể do mâu thuẫn phát sinh hàng ngày mà người phạm tội thấy trước được về hậu quả chết người tất yếu xảy ra và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra trên thực tế. Biểu hiện ý thức của tội này ra ở bên ngoài thường bằng những hành vi như: chuẩn bị hung khí (phương tiện), điều tra theo dõi về mọi hoạt động của người định giết, chuẩn bị các điều kiện, thủ đoạn để che giấu tội phạm,… còn gọi là cố ý dự mưu.
– Động cơ phạm tội của Tội trộm cắp tài sản là yếu tố vật chất. Yếu tố vật chất thúc đẩy về hành vi của họ từ bên trong dẫn tới mục đích phạm tội trộm cắp tài sản ra bên ngoài. Họ trộm cắp các tài sản nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình, đây là nguyên nhân chủ quan dẫn tới hành động cướp tài sản.
– Động cơ phạm tội của Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây ra hậu quả nghiêm trọng; động cơ vụ lợi ở Tội sử dụng trái phép tài sản. Trong các trường hợp này, tính chất của động cơ đã làm cho hành vi nguy hiểm cho xã hội trở nên mang tính nguy hiểm đáng kể hơn nữa.
– Tình thần bị thúc đẩy: Một số người có thể phạm tội do áp lực tinh thần hoặc là tình trạng tâm lý đặc biệt. Ví dụ, trong trường hợp một người bị căng thẳng về công việc và gia đình, họ sẽ có thể phạm tội vì cảm thấy không kiểm soát được tình huống của mình.
3. Ý nghĩa của động cơ phạm tội:
Động cơ phạm tội trong hầu hết những trường hợp đều không có ý nghĩa quyết định đến tính chất nguy hiểm của tội phạm, không thể nào làm thay đổi hẳn tính chất của hành vi phạm tội. Vì vậy, động cơ phạm tội trong hầu hết trường hợp không phải là căn cứ nhằm để phân biệt giữa tội phạm với không phải là tội phạm, giữa tội phạm này với các tội phạm khác. Trong những trường hợp như vậy, động cơ phạm tội sẽ không được mô tả trong cấu thành tội phạm cơ bản. Tuy nhiên, khi động cơ phạm tội mà có tính đặc trưng cho tội phạm nhất định và là dấu hiệu phân biệt tội này với những tội khác hoặc với trường hợp không phải là tội phạm thì nó sẽ phải được mô tả trong cấu thành tội phạm (cơ bản) của tội này như là động cơ phòng vệ, động cơ bắt giữ người phạm tội ở tội giết người do có vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi mà bắt giữ người phạm tội (Điều 126 của Bộ luật Hình sự); động cơ vụ lợi ở tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 177 của Bộ luật Hình sự)…
Động cơ phạm tội còn có thể được phản ánh trong những cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng hoặc giảm nhẹ.
Những văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017.