Dự báo tình hình thực hiện quyền được suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự và phương hướng về nâng cao vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền được suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự.
Mục lục bài viết
1. Dự báo tình hình thực hiện quyền được suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự:
Quyền được SĐVT của người bị buộc tội và nguyên tắc suy đoán vô tội được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam là một bước tiến quan trọng trong nhận thức, pháp luật và thực tiễn tố tụng hình sự Việt Nam. Quy định của Hiến pháp, pháp luật về suy đoán vô tội thể hiện chính sách pháp luật tố tụng hình sự nhân đạo, dân chủ, vì con người trong cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, đường lối, chính sách nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng vi phạm quyền con người nói chung, quyền được SĐVT của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự nói riêng; nhưng vẫn còn những vụ án quyền được SĐVT chưa được áp dụng, thực hiện một cách triệt để làm nhức nhối lòng dân, dư luận, gây thiệt hại trực tiếp cho người bị buộc tội.
Tác giả cho rằng, dự báo tình hình thực hiện quyền được SĐVT trong TTHS thời gian tới có quan hệ mật thiết tới những vấn đề cụ thể sau:
* Tình hình tội phạm:
Ngày 25/6/2021 lực lượng Cảnh sát hình sự đã tổ chức Hội nghị trực tuyến sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2021 và đề ra nhiệm vụ, giải pháp 6 tháng cuối năm. Trung tướng Nguyễn Duy Ngọc – Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng, Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an cho biết: Trong 6 tháng đầu năm 2021 công tác đấu tranh phòng chống tội phạm hình sự đã đạt được nhiều kết quả quan trọng góp phần làm giảm 3,61% số vụ phạm tội về trật tự xã hội so với cùng kỳ năm 2020; điều tra, làm rõ 15.406 vụ phạm pháp hình sự, bắt xử lý 33.935 đối tượng, đạt tỷ lệ 83,84%; triệt phá 847 băng, nhóm tội phạm. Công tác tiếp cận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đạt tỷ lệ 71,19%, riêng Cục Cảnh sát hình sự tiếp nhận xử lý 774/774 đơn, đạt tỷ lệ 100%.
Nhìn chung, tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp, có xu hướng trẻ hóa, tính chất ngày càng nghiêm trọng, nhất là các tội có sử dụng bạo lực như cướp, cố ý gây thương tích, tội phạm kinh tế gia tăng trong nhiều lĩnh vực như: buôn lậu, gian lận thương mại, vi phạm sở hữu trí tuệ, sản xuất kinh doanh hàng giả, hàng cấm… tội phạm ma túy tiếp tục tăng với tính chất hoạt động tinh vi, chống đối quyết liệt hơn.
Thực tiễn tố tụng những năm gần đây, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng ở Việt Nam đã quán triệt tốt nguyên tắc suy đoán vô tội, tuyên bố nhiều bị can, bị cáo không phạm tội do không chứng minh được lỗi của họ. Tuy nhiên, trên thực tế việc nhận thức và thực hiện quyền được SĐVT trong tố tụng hình sự chưa thực sự chính xác, đầy đủ và triệt để. Với yêu cầu “khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội thì phải kết luận người bị buộc tội là không có tội”. Quy định về SĐVT tạo điểm tựa cho Tòa án thể hiện sự độc lập và vai trò trung tâm của mình trong việc đánh giá chứng cứ, đánh giá tính hợp pháp của các hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thể hiện một vị thế rất mới của Tòa án khi quy định trong việc thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, Tòa án có quyền: “xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do luật sư, bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cung cấp.” và “xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên…” Tuy nhiên, các quy định này cũng buộc Tòa án phải vượt qua sự “nể nang” và quan hệ gắn kết truyền thống giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, vượt qua “bệnh thành tích” trong tư pháp hình sự.
Như vậy, suy đoán vô tội còn là lối mở cho những vụ án đi vào ngõ cụt, điểm dừng cho hệ thống tư pháp vốn đặt ra những mục tiêu, nhiệm vụ rất lý tưởng và duy ý chí như chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
* Tình hình hoàn thiện pháp luật:
Sau hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có nhiều tiến bộ. Quy trình ban hành các văn bản pháp luật được đổi mới. Nhiều bộ luật, luật, văn bản dưới luật được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn chỉnh hơn để quản lý nhà nước bằng pháp luật trên tất các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, đối ngoại, …Nguyên tắc pháp quyền XHCN được đề cao và ngày càng được phát huy trên thực tế.
Ngoài
Đến nay hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nước ta cơ bản đã có đủ luật điều chỉnh trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, nhìn chung hệ thống pháp luật của nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu sự thống nhất, tính khả thi, thi hành thấp. Cơ chế xây dựng, sửa đổi còn nhiều bất cập, chưa được coi trọng, đổi mới và hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật, pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật chưa cao, còn nhiều nội dung cần phải sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn thi hành. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa thực sự được quan tâm, sát sao. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn nhiều hạn chế.
* Tình hình đáp ứng yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư trong quá trình giải quyết vụ án hình sự:
Thời gian qua, về mặt bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện có hiệu quả các quyền của mình khi tham gia tố tụng hình sự, trong đó có quyền được SĐVT. Tuy nhiên, xét cả trên phương diện lý luận và thực tiễn, người bị buộc tội chưa được xem là một bên trong quan hệ tố tụng, thậm chí có nhiều trường hợp người bị buộc tội còn được coi như là đối tượng xem xét của các cơ quan tiến hành tố tụng. Tính thụ động và bị lệ thuộc của người bào chữa là điểm dễ nhận thấy trong tố tụng.
Xuất phát từ yêu cầu đó, quá trình cải cách tư pháp hình sự phải tạo ra quy trình, thủ tục tố tụng hợp lý, khoa học nhằm bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội và chủ thể thực hiện chức năng bào chữa; tạo cơ hội, điều kiện ngang nhau cho các bên trong việc cung cấp chứng cứ, bảo vệ quan điểm, ý kiến của mình, bảo đảm cho các bên được phản ánh ý kiến, lập luận của mình một cách trực tiếp với Tòa án.
Cho đến thời điểm hiện nay, Liên đoàn luật sư Việt Nam, các Đoàn luật sư địa phương vẫn chưa có cuộc khảo sát hay cuộc điều tra xã hội học nào để thống kê về việc đã có bao nhiêu lượt luật sư bị gây khó khăn trong quá trình tham gia tố tụng nói chung và thực hiện bào chữa tại phiên tòa nói riêng. Những năm qua đã có nhiều cuộc hội thảo, báo chí đã nói lên những khó khăn, bất cập, bức xúc mà luật sư đã gặp phải trong quá trình tham gia tố tụng và bào chữa tại phiên tòa.
Việc tranh luận tại phiên tòa đòi hỏi HĐXX, mà trách nhiệm trước tiên là Thẩm phán, Chủ tọa phiên tòa phải có trách nhiệm đáp ứng thỏa đáng. Thông qua thực tiễn hoạt động xét xử cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của hoạt động tranh tụng nói chung và việc tranh tụng giữa luật sư và KSV tại các phiên tòa hình sự trong giai đoạn hiện nay.
2. Phương hướng về nâng cao vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền được suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự:
Bảo đảm quyền được SĐVT trong tố tụng hình sự là nhu cầu cấp thiết nhằm thực hiện đúng đắn, kịp thời chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, đảm bảo nhu cầu đổi mới, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn hoạt động tố tụng. Hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền, hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
Phương hướng về nâng cao vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền được SĐVT trong tố tụng hình sự trong thời gian tới là:
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước cần quan tâm, nhìn nhận vấn đề bảo vệ quyền con người nói chung, quyền được suy đoán vô tội nói riêng là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị, đòi hỏi phải có sự quan tâm một cách đầy đủ của các ngành, các cấp, nhất là các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tôn trọng, bảo đảm và thực hiện quyền con người là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, là động lực chính của sự phát triển. Quyền con người đang là một trong những vấn đề đang được quốc tế quan tâm hàng đầu hiện nay, được nêu trong mối quan hệ mật thiết với các quan hệ về chính trị, kinh tế, thương mại, văn hóa, các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Trong khi việc bảo đảm và thực hiện quyền con người là nguyện vọng của toàn thể nhân dân, các dân tộc thì vấn đề này cũng đang bị các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá. Do đó, các cấp, các ngành, đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng cần quan tâm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự đê bảo đảm thực hiện quyền con người trong tố tụng hình sự nói chung, quyền được SĐVT nói riêng.
Thứ hai, cần quy định về trình tự, thủ tục tố tụng bảo đảm quyền được suy đoán vô tội, cần rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu, dễ áp dụng tránh vi phạm, đặc biệt là các quy định có liên quan đến cơ sở pháp lý của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, các biện pháp điều tra, hoạt động xét xử, kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các giải pháp đặt ra cần chú trọng phương diện tôn trọng và bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Các cấp xét xử được tiến hành một cách công khai, minh bạch, tạo điều kiện cho việc kiểm tra, giám sát của xã hội đối với hoạt động xét xử của Tòa án. Việc tổ chức Tòa án cần quy định chi tiết các điều kiện cụ thể để đảm bảo hai cấp xét xử đạt hiệu quả cao. Hệ thống Tòa án đảm bảo theo cấp xét xử, thẩm quyền xét xử được tổ chức theo khu vực, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính nhất định; chú trọng tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp xét xử có mối quan hệ với nhau trên phương diện tố tụng, không bị ràng buộc bởi quan hệ hành chính, bảo đảm sự thật khách quan, sự độc lập giữa tư pháp và lập pháp, giữa tư pháp và hành pháp. Hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và các ngành luật có liên quan nhằm bảo đảm quyền được SĐVT trong tố tụng hình sự.
Chú trọng việc giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật bảo đảm việc thực hiện quyền được SĐVT có tính khả thi, không chỉ mang tính hình thức; nâng cao năng lực của người tiến hành tố tụng cả về chất lượng và số lượng làm cơ sở cho việc từng bước nâng cao chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Bảo đảm cơ sở vật chất ở mức độ đáp ứng được các yêu cầu của hoạt động xét xử, bảo đảm thuận lợi cho hoạt động tố tụng hình sự đạt hiệu quả cao, đồng thời bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền con người trong tố tụng sự, quyền được suy đoán vô tội đối với người bị buộc tội.
Thứ ba, tiến hành hoạt động cải cách tư pháp, từng bước nâng cao chất lượng tổ chức, hoạt động, công tác của các cơ quan tư pháp; khắc phục tình trạng vi phạm tố tụng, lạm quyền dẫn đến xử lý oan, sai, giảm lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan bảo vệ và thực thi pháp luật. Cơ điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ quan Thi hành án phải luôn bám sát các Nghị quyết của Đảng, Chỉ thị của Nhà nước trong hoạt động tổ chức, lãnh đạo, chỉ đạo công tác và hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình để có những chủ trương, hoạt động sát sao, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng địa phương, đơn vị nhằm bảo đảm thực hiện quyền được SĐVT trong thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Trên cơ sở các chủ trương, chỉ đạo của Đảng, quy định của Nhà nước, các cơ quan tiến hành tố tụng cần thể hiện rõ vai trò tích cực, chủ động của mình trong việc tuân thủ, thực thi, bảo vệ pháp luật, bảo đảm quyền được SĐVT trong tố tụng hình sự; đồng thời có sự phối hợp, hướng dẫn, giám sát giữa các cơ quan tư pháp, thanh tra và các cơ quan, tổ chức, xã hội và công dân trong việc tăng cường giám sát hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, hạn chế tối đa sự vi phạm quyền con người trong tố tụng hình sự.
Thứ tư, hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự nhằm bảo đảm thực hiện quyền được suy đoán vô tội kế thừa những truyền thống pháp lý của dân tộc, những thành tựu mà nền tư pháp xã hội chủ nghĩa đã đạt được; tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của các nước trên thế giới phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nước ta, đảm bảo yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế; đáp ứng xu hướng phát triển của xã hội trong tương lai.