Một số định hướng, chính sách về bảo đảm quyền trẻ em trước tác động của biến đổi khí hậu ở Việt Nam hiện nay.
Trong những năm qua, công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em luôn được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội quan tâm, được coi là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu để bảo đảm an sinh xã hội, vì mục tiêu phát triển ổn định và lâu dài của đất nước. Dưới đây là một số định hướng, chính sách nhằm bảo đảm quyền trẻ em trước tác động của biến đổi khí hậu ở Việt Nam hiện nay.
Mục lục bài viết
- 1 1. Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu (NCCS):
- 2 2. Chiến lược Tăng trưởng Xanh của Việt Nam:
- 3 3. Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu:
- 4 4. Kế hoạch Quốc gia Thích ứng với biến đổi khí hậu (NAP):
- 5 5. Nghị quyết về biến đổi khí hậu:
- 6 6. Phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền trẻ em và biến đổi khí hậu:
- 7 7. Nâng cao vai trò trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp:
1. Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu (NCCS):
Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu được ban hành năm 2011 nhằm đưa ra các định hướng và biện pháp tổng thể cho cả thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu. Chiến lược xác định mười định hướng chính về cả thích ứng và giảm thiểu để ứng phó với biến đổi khí hậu tại Việt Nam, bao phủ sâu rộng các vấn đề về thiên tai liên quan đến biến đổi khí hậu, an ninh lương thực và nước, nước biển dâng, giảm thiểu khí nhà kính, cộng đồng có khả năng phục hồi, khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, tài chính và đầu tư về lĩnh vực khí hậu. Nhằm thực hiện Chiến lược Quốc gia về biến đổi khí hậu, Chính phủ đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về biến đổi khí hậu (NAPCC) giai đoạn 2012- 2020, trong đó đưa ra 65 chương trình/ dự án. Hiện tại, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang chủ trì quá trình đánh giá việc thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu và Kế hoạch hành động quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn 2012-2020 và soạn thảo Kế hoạch hành động quốc gia về biến đổi khí hậu cho giai đoạn tiếp theo 2021-2030. Các định hướng chính trong Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu và mối liên hệ với trẻ em được thể hiện ở các lĩnh vực.
An ninh Lương thực và Nước: là một trong mười lĩnh vực trọng tâm của Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn 2011-2020. Các dự án và hoạt động chính của Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đã giải quyết các vấn đề về an ninh lương thực và nước để ứng phó với biến đổi khí hậu nói chung, nhưng không có hoạt động cụ thể nào tập trung đặc biệt vào nhu cầu của trẻ em. Ngoài ra, vấn đề dinh dưỡng vẫn chưa được xác định là vấn đề chính trong Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu mặc dù đây là một tác động đáng kể của tác động đáng kể của biến đổi khí hậu đối với trẻ em. Trong giai đoạn 2021-2030, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn dự kiến thực hiện một số hoạt động như chương trình mục tiêu phát triển bền vững thủy sản; Chương trình mục tiêu tái cơ cấu ngành nông nghiệp, cứu trợ, phòng chống thiên tai và sinh kế, cũng như chuyển dịch cơ cấu phát triển cây trồng, vật nuôi ứng phó với biến đổi khí hậu. Đây có thể là những yếu tố cơ bản để phát triển các dự án tập trung hơn vào dinh dưỡng cho trẻ em và cách tiếp cận lấy trẻ em làm trung tâm. Liên quan đến nước sạch, Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam giai đoạn 2011-2020 đặt mục tiêu tỷ lệ dân số được sử dụng nước sạch ở thành thị là 95% và ở nông thôn là 90% vào năm 2020. Các mục tiêu này có thể sẽ đạt được; tuy nhiên, để nước máy đạt tiêu chuẩn của Bộ Y tế, Việt Nam sẽ mất nhiều thời gian để đạt được các chỉ tiêu này. Ngoài ra, các chỉ số và chỉ tiêu liên quan đến vệ sinh môi trường không được đưa vào Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội (2016-2020) hiện hành. Trong dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cho 5 năm tới (2021-2025), Việt Nam có kế hoạch tăng mục tiêu nước sạch lên 100% đối với khu vực thành thị và 95% đối với khu vực nông thôn, và Việt Nam cần ưu tiên vấn đề vệ sinh môi trường trong kế hoạch này, đặc biệt là trong bối cảnh biến đổi khí hậu và các trường hợp khẩn cấp về sức khỏe. Các kế hoạch về an ninh nước và quản lý nguồn nước trong Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu cho giai đoạn tiếp theo có thể mở rộng các vấn đề từ sản xuất nông nghiệp sang các vấn đề cấp cộng đồng, bao gồm sức khỏe trẻ em, nước sạch và vệ sinh môi trường.
Y tế và khả năng phục hồi của cộng đồng: Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu xác định nhiệm vụ tăng cường hệ thống chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng để ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu. Trong tương lai, Bộ Y tế và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội sẽ lập kế hoạch một số dự án về y tế và bảo vệ trẻ em. Ví dụ, Bộ Y tế (Tổng cục Y tế dự phòng) có kế hoạch xây dựng Đề án thí điểm (2019-2030) về “Hệ thống dự báo, cảnh báo sớm dịch bệnh và tỷ lệ nhập viện do bệnh tật”, trong đó bao gồm các bệnh liên quan đến biến đổi khí hậu, suy dinh dưỡng trẻ em ở các khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi biến đổi khí hậu.
Giáo dục: Nâng cao nhận thức, giáo dục và đào tạo về vấn đề biến đổi khí hậu được xác định là một trong những nhiệm vụ trong Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, nghiên cứu Phân tích tác động của biến đổi khí hậu đối với trẻ em cho thấy Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện đang thiếu nguồn lực để lồng ghép các vấn đề biến đổi khí hậu vào các chương trình giảng dạy mới được phát triển và tập huấn cho giáo viên về những vấn đề này. Đây là những lĩnh vực cần được tiếp tục hỗ trợ. Ngoài ra, cũng cần hỗ trợ việc thu thập dữ liệu để tiếp tục đưa ra các chính sách dựa trên bằng chứng về tác động của biến đổi khí hậu đối với việc học tập của trẻ em và vai trò của hệ thống giáo dục quốc gia trong việc học tập.
Môi trường: Giảm thiểu bao gồm “bảo vệ và phát triển rừng bền vững, tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính và bảo tồn đa dạng sinh học”, điều này củng cố kế hoạch Đánh giá nhu cầu công nghệ (TNA) về rừng (Sử dụng đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất và rừng), có thể được thực hiện ở cả khu vực nông thôn và thành thị. Về vấn đề này, có nhiều lĩnh vực có thể lồng ghép lợi ích của trẻ em: thiết kế và thực hiện các mô hình đô thị và khu dân cư xanh và tiếp tục công việc xây dựng trường học xanh; và tiếp tục vận động sử dụng năng lượng xanh và quản lý chất thải. Bộ Công Thương đã thực hiện mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (2012-2020). Điều này có thể được mở rộng trong giai đoạn tiếp theo với việc tập trung nhiều hơn vào mô hình trường học xanh cũng như giáo dục tiết kiệm năng lượng. Việt Nam đã có một số thực hành tốt trong cộng đồng tổ chức phi chính phủ/ tổ chức xã hội dân sự có thể được hỗ trợ để mở rộng quy mô trên toàn quốc.
2. Chiến lược Tăng trưởng Xanh của Việt Nam:
Chiến lược Quốc gia về Tăng trưởng Xanh (NGGS) là một trong những hoạt động được xác định trong Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu (Hoạt động số 25). Chiến lược Quốc gia về Tăng trưởng Xanh (2011-2020) với tầm nhìn đến năm 2050 được ban hành vào tháng 9 năm 2012 chủ yếu với mục tiêu giảm nhẹ biến đổi khí hậu về giảm phát thải khí nhà kính, quản lý tài nguyên thiên nhiên và giải quyết suy thoái môi trường. Chiến lược Quốc gia về Tăng trưởng Xanh được thực hiện trong Kế hoạch Hành động Quốc gia về Tăng trưởng Xanh (NAPGG).
Các định hướng chính trong Chiến lược Quốc gia về Tăng trưởng Xanh và mối liên hệ với trẻ em: Chiến lược Tăng trưởng Xanh đề ra các định hướng và biện pháp chính sách hướng tới sản xuất và tiêu dùng xanh ở Việt Nam trong giai đoạn mười năm. Chiến lược Quốc gia về Tăng trưởng Xanh giai đoạn 2011-2020 xác định 66 hành động theo bốn chủ đề: Tăng cường thể chế và xây dựng các kế hoạch hành động về tăng trưởng xanh ở cấp địa phương; Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy các nguồn năng lượng sạch và tái tạo; Xanh hóa sản xuất; và Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. Hiện tại, Việt Nam đang soạn thảo Chiến lược Quốc gia về Tăng trưởng Xanh cho giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Bộ Kế hoạch và đầu tư đang chủ trì quá trình này với sự tham gia của tất cả các bộ liên quan và chính quyền địa phương. Trong quá trình thực hiện Chiến lược Quốc gia về Tăng trưởng Xanh giai đoạn 2011-2020, có một số hoạt động nâng cao nhận thức liên quan đến trẻ em. Ví dụ, một hoạt động do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì là lồng ghép kiến thức về tiết kiệm năng lượng vào các chương trình giáo dục và đào tạo cho trẻ em.
Tuy nhiên, trẻ em chưa được đề cập cụ thể trong Chiến lược Quốc gia về Tăng trưởng Xanh giai đoạn 2011-2020. Nhiều việc cần được thực hiện trong giai đoạn tiếp theo của chiến lược. Các nhiệm vụ và hoạt động cụ thể trong giai đoạn tới có thể thay đổi, nhưng trọng tâm vẫn là thúc đẩy sản xuất xanh, lối sống và tiêu dùng xanh. Cùng với việc thảo luận về dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021-2030, nhiều mô hình xanh và công nghệ thân thiện với môi trường mới sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ trong kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và Chiến lược Tăng trưởng xanh như kinh tế tuần hoàn, năng lượng tái tạo. Vai trò tích cực của khu vực tư nhân trong sản xuất xanh và vai trò của người dân trong tiêu dùng và lối sống xanh, bao gồm cả trường học ứng phó thông minh với biến đổi khí hậu, có thể được thúc đẩy hơn nữa. Về vấn đề này, có nhiều lĩnh vực tiềm năng để lồng ghép lợi ích và tính dễ bị tổn thương của trẻ em trong Chiến lược Quốc gia về Tăng trưởng Xanh, ít nhất là ở khía cạnh giáo dục và nâng cao nhận thức như phát triển mô hình nông thôn mới với lối sống hài hòa với môi trường (thiết kế sinh thái), trường học, trung tâm y tế ứng phó thông minh với biến đổi khí hậu, đô thị hóa bền vững (cơ sở hạ tầng kỹ thuật), cũng như truyền thông và hỗ trợ thực hiện. Chiến lược Quốc gia về Tăng trưởng Xanh cũng có thể thúc đẩy các kế hoạch đầu tư tiếp theo của các lĩnh vực (như giáo dục, y tế, môi trường,…) để lồng ghép các vấn đề của trẻ em và giải quyết các mối quan tâm của trẻ em.
3. Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu:
Tháng 10/2016, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu (PIPA), gồm 14 giai đoạn (2016-2030).
Các định hướng chính của Thỏa thuận Paris và mối liên hệ với trẻ em: Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu đã đưa ra một kế hoạch tổng thể để thực hiện Thỏa thuận Paris tại Việt Nam. Các kế hoạch công việc tổng thể được thực hiện bởi các bộ và cơ quan chủ quản. Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu bao gồm 68 nhiệm vụ (ưu tiên, bắt buộc và khuyến khích) trong các lĩnh vực giảm thiểu, thích ứng với biến đổi khí hậu, nguồn nhân lực/ kỹ thuật và tài chính; tính minh bạch (Đo lường, báo cáo và xác minh, các chính sách và thể chế cho giai đoạn trước năm 2020 và giai đoạn 2021-2030. Đáng chú ý là Bộ Giáo dục và Đào tạo được giao chủ trì xây dựng và triển khai chương trình giảng dạy về biến đổi khí hậu phù hợp với yêu cầu của Thỏa thuận Paris trong hệ thống giáo dục và đào tạo trong nước. Tuy nhiên, hoạt động này không được xếp loại là hoạt động bắt buộc, mà là hoạt động ưu tiên, do đó thiếu nguồn lực tài chính trong quá trình thực hiện. Việt Nam cũng đã phát triển các hành động giảm nhẹ biến đổi khí hậu phù hợp với điều kiện quốc gia cho chín lĩnh vực, trong đó bao gồm tăng cường năng lực lập kế hoạch về tăng trưởng với lượng các-bon thấp và cho Lĩnh vực Chất thải, được gọi là “Biến rác thải thành tài nguyên cho các thành phố” tại Việt Nam.
4. Kế hoạch Quốc gia Thích ứng với biến đổi khí hậu (NAP):
Kế hoạch Quốc gia Thích ứng với biến đổi khí hậu được xây dựng để xác định các giải pháp thích ứng cụ thể cho các lĩnh vực khác nhau để thực hiện Đóng góp do quốc gia tự quyết định. Kế hoạch Quốc gia Thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được phê duyệt trong thời gian gần đây.
Các định hướng chính của Kế hoạch Quốc gia Thích ứng với biến đổi khí hậu và mối liên hệ với trẻ em: Theo Quyết định số 105/QĐ-TTg, Kế hoạch Quốc gia Thích ứng với biến đổi khí hậu nhằm giảm thiểu tính dễ bị tổn thương và rủi ro do tác động của biến đổi khí hậu thông qua tăng cường khả năng phục hồi và thích ứng của cộng đồng, các ngành kinh tế và hệ sinh thái. Có ba nhiệm vụ trọng tâm trong hai giai đoạn 2021-2025 và 2026-2030: Một là, Nâng cao hiệu quả thích ứng với biến đổi khí hậu thông qua tăng cường quản lý nhà nước về biến đổi khí hậu, đặc biệt là xây dựng luật biến đổi khí hậu và thúc đẩy lồng ghép biến đổi khí hậu vào các hệ thống chiến lược và quy hoạch. Hai là, tăng cường khả năng chống chịu và nâng cao khả năng thích ứng của cộng đồng, các thực thể kinh tế và các cấu phần hệ sinh thái thông qua đầu tư vào các hoạt động thích ứng, khoa học và công nghệ, nâng cao nhận thức để sẵn sàng thích ứng với biến đổi khí hậu. Ba là, giảm nhẹ rủi ro thiên tai và giảm thiểu thiệt hại, sẵn sàng ứng phó với các tình trạng thiên tai gia tăng, hiện tượng thời tiết khắc nghiệt do biến đổi khí hậu.
Kế hoạch Quốc gia Thích ứng với biến đổi khí hậu tập trung vào sáu lĩnh vực, bao gồm nông nghiệp, quản lý rủi ro thiên tai, môi trường và đa dạng sinh học, tài nguyên nước, cơ sở hạ tầng, các lĩnh vực khác (chăm sóc sức khỏe cộng đồng, lao động – xã hội, văn hóa – thể thao – du lịch) và nâng cao năng lực. Các nhiệm vụ thực hiện trong giai đoạn 2021-2025 tập trung vào: hoàn thiện chính sách và cơ chế thích ứng với biến đổi khí hậu, chuẩn bị khuôn khổ pháp lý và các điều kiện kỹ thuật để tăng cường lồng ghép thích ứng biến đổi khí hậu vào các chính sách, chiến lược, kế hoạch, thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp ưu tiên để nâng cao năng lực thích ứng, và giảm thiệt hại do thiên tai gây ra. Các nhiệm vụ thực hiện trong giai đoạn 2026- 2030 tập trung vào việc tăng cường phối hợp, lồng ghép các hoạt động trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp được giao; tăng cường khả năng phục hồi của cơ sở hạ tầng, năng lực thích ứng của các hệ sinh thái tự nhiên và đa dạng sinh học; tăng cường phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên, bảo vệ, bảo tồn đa dạng sinh học ứng phó với biến đổi khí hậu; cải thiện các hành động thích ứng vì lợi ích chung nhằm giảm thiểu rủi ro do biến đổi khí hậu và tăng hiệu quả xã hội, kinh tế và môi trường. Kế hoạch Quốc gia Thích ứng với biến đổi khí hậu đưa ra một khuôn khổ cho các hoạt động trong tương lai của Chính phủ, và có thể được lồng ghép lợi ích của trẻ em trong quá trình thực hiện.
Mặc dù Kế hoạch Quốc gia Thích ứng với biến đổi khí hậu không đề cập rõ ràng đến trẻ em, nhưng nhiều hoạt động về trẻ em có thể được bổ sung trong một số kế hoạch của ngành. Các nỗ lực về vấn đề biến đổi khí hậu và chương trình lấy trẻ em làm trung tâm trong quá khứ và hiện tại có thể được mở rộng để hỗ trợ Chính phủ trong một số lĩnh vực trong quá trình triển khai Kế hoạch Quốc gia Thích ứng với biến đổi khí hậu. Ví dụ, Tổng Cục Phòng chống thiên tai (VDMA) đã thực hiện Đánh giá rủi ro thiên tai lấy trẻ em làm trung tâm (CCRA) vào năm 2017-2018 với sự hỗ trợ kỹ thuật của UNICEF Việt Nam. Đánh giá đã xác định các hiểm họa thiên nhiên nổi bật nhất ở Việt Nam và lập bản đồ các nguy cơ gây ra đối với trẻ em tại bốn tỉnh của Việt Nam. Từ đó, mức độ dễ bị tổn thương của trẻ em trước các hiểm họa thiên nhiên được đánh giá bằng cách phát triển Các chỉ số tổng hợp về mức độ dễ bị tổn thương (CVI); các chỉ số này được tổng hợp từ 66 chỉ số phụ ở bảy khía cạnh khác nhau (bao gồm giáo dục, dinh dưỡng, y tế, sự giàu có, khả năng tiếp cận nước và vệ sinh, cơ sở hạ tầng và quản lý trường hợp khẩn cấp). Dự án này có thể tiếp tục được mở rộng để xây dựng các kế hoạch thích ứng dựa trên bằng chứng trong các lĩnh vực khác nhau. Trên cơ sở đó, việc đánh giá nhu cầu phù hợp với trẻ em (hoặc đánh giá tính dễ bị tổn thương) có thể được thực hiện đối với một số lĩnh vực trong Kế hoạch Quốc gia Thích ứng với biến đổi khí hậu như phòng chống thiên tai, môi trường và đa dạng sinh học, tài nguyên nước và chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Trong thực tiễn, Việt Nam đã lồng ghép các nội dung về quyền trẻ em trong chính sách quốc gia về biến đổi khí hậu, coi trọng việc xử lý tác động của biến đổi khí hậu đối với quyền trẻ em trong tiến trình thực hiện Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu và Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Việt Nam cũng nỗ lực hợp tác với UNICEF và các đối tác trong việc xây dựng chiến lược giảm thiểu rủi ro thiên tai lấy trẻ em làm trung tâm. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng tăng cường truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của trẻ em về biến đổi khí hậu, khuyến khích trẻ em thực sự tham gia, đóng góp vào nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu, thiên tai. Một trong những điểm sáng của vấn đề này là Việt Nam đã nỗ lực huy động nhà trường, gia đình và toàn xã hội trang bị cho trẻ em những kiến thức cơ bản về môi trường, biến đổi khí hậu, cũng như những kỹ năng cần thiết để giảm thiểu rủi ro do thiên tai.
5. Nghị quyết về biến đổi khí hậu:
Từ năm 2014, Việt Nam cùng các thành viên nhóm nòng cốt giới thiệu nghị quyết hàng năm về biến đổi khí hậu và quyền con người để Hội đồng Nhân quyền xem xét và thông qua, với trọng tâm mỗi năm tập trung vào từng nhóm си thể như quyền trẻ em, quyền sức khoẻ, quyền của người di cư, quyền phụ nữ trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Sự tham gia tích cực của Việt Nam trong việc xây dựng và giới thiệu nghị quyết này cũng như trong các hoạt động của nhóm nòng cốt của nghị quyết phản ánh nỗ lực của Việt Nam trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu, đồng thời góp phần thực hiện chính sách đối ngoại chủ động, tích cực, có trách nhiệm với các vấn đề chung của cộng đồng quốc tế. Việt Nam cũng ủng hộ các cơ chế nhân quyền Liên Hợp quốc, ủng hộ tiến hành đối thoại thực chất, mang tính xây dựng về các vấn đề nhân quyền. Bên cạnh đó, Việt Nam luôn nỗ lực cao nhất để bảo vệ quyền con người trong ứng phó với đại dịch COVID-19, để đảm bảo việc thụ hưởng các quyền con người cơ bản của người dân với ưu tiên cao nhất là bảo vệ tính mạng và sức khỏe của người dân, đặc biệt là các nhóm dễ bị tổn thương trong đó có trẻ em, đồng thời duy trì tăng trưởng kinh tế; kêu gọi các nước nỗ lực để tăng cường sản xuất vaccine COVID-19, bảo đảm tiếp cận kịp thời và công bằng đối với vaccine COVID-19 nhằm ứng phó hiệu quả đại dịch và phục hồi bao trùm và bền vững. Việt Nam cũng đang tích cực tham gia xây dựng nội dung các văn kiện, đồng bảo trợ nhiều sáng kiến trên tinh thần đối thoại và hợp tác, thể hiện quan điểm, chính sách nhất quán, thành tựu của Việt Nam và quan điểm, thành tựu chung của ASEAN về thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người, góp phần cùng các nước đảm bảo hoạt động của Hội đồng Nhân quyền phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.
6. Phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền trẻ em và biến đổi khí hậu:
Công ước UNCRC năm 1989 đã được Việt Nam phê chuẩn vào năm 1990. Đã có những chính sách công nhận trẻ em, như Luật Bảo vệ Môi trường được sửa đổi (Khoản 2, Điều 04) quy định rằng bảo vệ môi trường nhằm “đảm bảo quyền trẻ em…”. Tương tự, Luật Trẻ em cũng công nhận tầm trọng của việc bảo vệ trẻ em khỏi các hiểm họa về thiên tai và khí hậu. Đáng chú ý là Đóng góp do quốc gia tự quyết định của Việt Nam đã công nhận tính dễ bị tổn thương của trẻ em trước biến đổi khí hậu. Một số chương trình nghị sự về chính sách toàn cầu đang hướng tới việc tăng cường lợi ích và khả năng chống chịu của con người và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. Việt Nam đã tham gia ký kết một số thỏa thuận này, bao gồm Thỏa thuận Paris trong khuôn khổ Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) và Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững, các chương trình này đóng vai trò quan trọng đối với lợi ích của con người và môi trường. Các mục tiêu phát triển bền vững Việt Nam đang phấn đấu thực hiện, có liên quan đến Công ước về Quyền trẻ em, liên quan tới các lĩnh vực bảo vệ trẻ em, sức khỏe và giáo dục. Việc đạt được các mục tiêu sẽ là một đóng góp lớn hướng tới việc thực hiện quyền trẻ em.
Tương tự, với tư cách là quốc gia đã cam kết sớm với khuôn khổ Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, đóng góp do quốc gia tự quyết định của Việt Nam nhằm mục đích giảm quỹ đạo phát thải đang gia tăng mạnh mẽ. Tuy nhiên dù có những mục tiêu này, Việt Nam vẫn trên đà trở thành quốc gia phát thải khí nhà kính lớn vào năm 2030. Văn phòng UNICEF tại khu vực Đông Á và Thái Bình Dương (EAPRO) đã tiến hành nghiên cứu chính sách liên quan đến quyền trẻ em trong khu vực, trong đó có chính sách của Việt Nam năm 2019. Phân tích cho thấy đa số các quốc gia được xem xét đều đã xây dựng luật bao hàm hầu hết các nhóm quyền của trẻ em từ quyền được bảo vệ tới quyền có một môi trường lành mạnh. Phân tích cũng chỉ ra rằng có rất ít quốc gia đã đặt yêu cầu về đánh giá tác động của quyền trẻ em làm nhiệm vụ cấp quốc gia. Nghiên cứu kết luận rằng việc thiếu năng lực kỹ thuật cũng như nguồn lực (cả nhân lực và tài chính) đã dẫn đến những hạn chế trong việc triển khai các quyền. Báo cáo cũng đưa kết luận về việc thiếu nhận thức về mối liên hệ giữa quyền trẻ em và vấn đề môi trường ở cả cấp cộng đồng và chính quyền. Báo cáo này của EAPRO đã chắt lọc các kết quả từ những nghiên cứu về 17 chính sách/ kế hoạch hành động liên quan đến biến đổi khí hậu ở Việt Nam (xem Phụ lục 02). Đối với mỗi chính sách hoặc kế hoạch hành động, có các mục tương ứng để đánh giá khả năng đáp ứng của khung pháp lý đối với quyền của trẻ em được hưởng một môi trường lành mạnh. Phân tích này đặc biệt lưu ý đến việc có tương đối ít công cụ pháp lý công nhận quyền bày tỏ ý kiến và quyền tham gia của trẻ em. Ví dụ, mục “Trẻ em có quyền bày tỏ ý kiến và ý kiến của các em được tiếp thu.” chỉ có trong Luật trẻ em và mục “Quyền tham gia của trẻ em về các vấn đề môi trường” mới chỉ được quy định trong hiến pháp, Luật Đa dạng sinh học và Kế hoạch Hành động Quốc gia vì trẻ em. Chỉ có ba công cụ chính sách công nhận một cách rõ ràng trẻ em có quyền được bảo vệ tính mạng, được bảo đảm tốt nhất các điều kiện sống và phát triển: Luật Trẻ em; Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 2016-2020 và Luật Phòng chống thiên tai.
7. Nâng cao vai trò trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp:
Quan hệ đối tác giữa các cơ quan chính phủ, tổ chức xã hội dân sự, chức Liên hợp quốc, các tổ chức tài chính quốc tế (Ngân Hàng Thế Giới và Ngân hàng Phát triển Châu Á), những nhà tài trợ song phương, và khu vực tư nhân là chìa khóa để tiến tới thực hiện hành động lấy trẻ em làm trung tâm tại Việt Nam. Lĩnh vực biến đổi khí hậu đã đạt một số thành tựu, từ đối thoại và vận động chính sách đến nghiên cứu trong các lĩnh vực khác nhau với sự tham gia của nhiều bên hữu quan. Một số cơ hội cho Chính phủ Việt Nam và các tổ chức hành động và bắt đầu các nỗ lực hợp tác để cải thiện chính sách làm cơ sở cho thực hiện hành động. Các phương hướng chính bao gồm tầm quan trọng của: hợp tác đa ngành, đa tổ chức; xây dựng bằng chứng để hỗ trợ vận động chính sách, truyền tải thông điệp liên quan tới quyền trẻ em một cách mạnh mẽ và hiệu quả; nâng cao năng lực, đặc biệt là đối với chính quyền các cấp về tầm quan trọng của việc đặt trẻ em và các lĩnh vực xã hội làm trọng tâm trong các chiến lược và chính sách về biến đổi khí hậu; và tầm quan trọng của sự tham gia của trẻ em – để các em có thể vận động hiệu quả cho các vấn đề ảnh hưởng đến chính các em.
Nâng cao nhận thức của các bên hữu quan về tầm quan trọng của hành động ứng phó với biến đổi khí hậu tập trung vào trẻ em. Xây dựng chiến lược và kế hoạch hành động liên ngành, với sự tham gia của nhiều bên khác nhau. Có sự cam kết của các bên hữu quan thuộc chính phủ và các cơ quan phát triển để tạo, sử dụng dữ liệu về tác động của khí hậu và môi trường cho chính sách dựa trên bằng chứng và can thiệp chiến lược. Tăng cường quan hệ đối tác, cả mối quan hệ với khu vực tư nhân, tổ chức xã hội dân sự, tổ chức Phi chính phủ tại Việt Nam (xem Phụ lục 03) để tạo ra sự hợp lực và nỗ lực nhất quán, củng cố nguồn lực ứng phó với biến đổi khí hậu.