Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định thế nào về quyết định hình phạt tù có thời hạn?
Quy định của pháp luật về hình phạt tù có thời hạn
Trong luật Hình sự Việt Nam, tù có thời hạn là hình phạt truyền thống và được quy định qua các BLHS. Đây là hình phạt chính được quy định phổ biến trong các chế tài của luật hình sự. Trong thực tiễn xét xử, tù có thời hạn được coi là loại hình phạt hữu hiệu nhất để đấu tranh với các loại tội phạm, là một loại hình phạt nghiêm khắc vì người bị kết án bị tước tự do, bị cách ly với xã hội, phải lao động trong trại giam dưới sự quản lý và giám sát chặt chẽ.
BLHS năm 1985 ra đời đánh dấu một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của Luật hình sự nước ta, là sự kế thừa và phát triển Luật hình sự của Nhà nước ta từ Cách mạng tháng Tám, tổng kết những kinh nghiệm đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm ở nước ta trong mấy chục năm trước. Điều 25 BLHS năm 1985 quy định “Tù có thời hạn là hình phạt buộc người bị kết án phải bị giam trong thời gian từ ba tháng đến hai mươi năm. Thời gian tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù”. Đến năm 1999, BLHS ra đời đã thay thế BLHS 1985 và quy định tại Điều 33 như sau:
Tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định. Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là ba tháng, mức tối đa là hai mươi năm. Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù. Điều 38 BLHS năm 2015 quy định:
Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định. Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm. Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù. Không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và nơi cư trú rõ ràng.
Như vậy, so sánh giữa 3 lần trải qua việc sửa đổi BLHS, về cơ bản tù có thời hạn đối với người phạm một tội vẫn giữ nguyên trong khung hình phạt có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm. Tại sao khung hình phạt lại không hề có sự thay đổi gì? Điều này phải chăng là ý đồ của các nhà làm luật, thể hiện việc họ đã thực sự nghiên cứu kỹ lưỡng và áp dụng một cách thống nhất khoa học, phù hợp với tình hình tội phạm và thực tiễn xét xử qua các thời kỳ của Nhà nước ta.
Hình phạt tù có thời hạn là một hình phạt chính trong hệ thống hình phạt của BLHS 2015, là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định. Điều đó đồng nghĩa với việc tước đi quyền tự do và hạn chế một số quyền nhân thân của người bị kết án, cách ly họ khỏi đời sống xã hội, buộc họ phải sống trong môi trường riêng biệt có sự giám sát, kiểm soát chặt chẽ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đây là hình phạt phổ biến trong hệ thống hình phạt của mọi quốc gia.
So với hình phạt cải tạo không giam giữ thì hình phạt tù có thời hạn có nội dung cưỡng chế nghiêm khắc hơn nhiều. Điều này thể hiện ở việc người bị kết án cải tạo không giam giữ không bị cách ly ra khỏi đời sống xã hội, mọi hoạt động sinh hoạt với gia đình, cộng đồng không bị ảnh hưởng mà chỉ bị chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát, giáo dục. Trong khi đó người bị kết án tù bị tước tự do hoàn toàn, bị giam giữ trong một môi trường chịu sự quản lý chặt chẽ và nghiêm khắc, việc tiếp xúc với môi trường sống xã hội bị hạn chế. Hạn chế tự do đối với người bị kết án tù có thời hạn là nội dung pháp lý chủ yếu của loại hình phạt này. Khi bị kết án tù và phải chấp hành án tại cơ sở giam giữ, họ không còn có những điều kiện nhất định để phạm tội mới gây thiệt hại đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
Bên cạnh hình phạt tù có thời hạn, BLHS còn quy định về hình phạt tù không thời hạn (tù chung thân). Tù chung thân giống tù có thời hạn ở chỗ cả hai hình phạt này đều tước đi tự do của người bị kết án, cách ly họ ra khỏi đời sống xã hội để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Nhưng khác với tù có thời hạn, tù chung thân không có thời hạn, nghĩa là nó có khả năng tước tự do của người bị kết án đến hết đời. Sự khác nhau cơ bản của hai hình phạt này thể hiện ở chỗ: Hình phạt tù có thời hạn buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định, tối thiểu là 03 tháng, tối đa là 20 năm.
Còn tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình, cao hơn tù có thời hạn nhưng thấp hơn tử hình. Có khả năng tước quyền tự do của người bị kết án cho đến khi họ chết, là hình phạt thay thế cho trường hợp tử hình được ân giảm.
Qua những phân biệt trên có thể thấy rằng, tù có thời hạn và tù không thời hạn có những điểm khác nhau riêng biệt. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong BLHS để phân loại tội phạm, đảm bảo QĐHP vừa có tính chất trừng phạt, răn đe vừa mang tính nhân đạo, khoan hồng, tạo điều kiện cho người phạm tội tự cải tạo mình trở thành công dân có ích cho xã hội.